image banner
Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7 và 7 tháng đầu năm 2023

Tình hình kinh tế - xã hội tháng 7/2023, tiếp tục đạt được nhiều kết quả khởi sắc trên các lĩnh vực, công tác an sinh xã hội được triển khai tích cực. Bên cạnh đó, vẫn còn không ít khó khăn, thách thức như: thời tiết diễn biến bất thường, giá một số mặt hàng thiết yếu, giá nguyên nhiên liệu đầu vào cho sản xuất tăng cao,… ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các ngành nghề trên địa bàn tỉnh. Tình hình cụ các lĩnh vực như sau thể như sau:

I. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

1. Nông nghiệp

a. Trồng trọt

Cây lúa

- Lúa hè thu 2023: Đã gieo sạ xong, diện tích ước đạt 217.437 ha, tăng 0,21% so với cùng kỳ năm trước. Hiện số diện tích gieo sạ sớm đã cho thu hoạch, ước đạt 59.900 ha (tăng 4,36% so cùng kỳ); năng suất ước đạt 54,50 tạ/ha (tăng 15,96%), Năng suất tăng chủ yếu ở Huyện Tân Thạnh do diện tích vụ Hè Thu sạ sớm hơn các năm trước khoảng 20 ngày nên thời tiết tương đối thuận lợi (trùng với thời tiết vụ Đông Xuân); sản lượng thu hoạch ước đạt 326.455 tấn (tăng 21,01%). Số diện tích còn lại phát triển tốt, đang trong giai đoạn làm đòng, trổ bông.

- Lúa thu đông 2023: Diện tích gieo sạ ước đạt 37.900 ha, tăng 4,31% so với cùng kỳ năm trước, tập trung ở huyện Tân Thạnh, Thạnh Hóa, Tân Hưng và thị xã Kiến Tường.

Tình hình sâu bệnh

Trên lúa hè thu 2023 có các đối tượng gây hại như: Bệnh đạo ôn lá (2.715 ha), cháy bìa lá (1.882 ha), rầy phấn trắng (1.502 ha), lem lép hạt (855 ha); rầy nâu (470 ha), bệnh vàng lá chín sớm (375 ha), sâu cuốn lá nhỏ (310 ha), sâu đục thân (267 ha), chuột (238 ha), ngộ độc phèn (85 ha)… xuất hiện trên lúa giai đoạn đẻ nhánh-đòng trổ ở hầu hết các huyện, thị xã Kiến Tường và thành phố Tân An.

Một số cây hàng năm khác vụ hè thu 2023: Rau các loại trồng được 5.923,40 ha, tăng 4,84% so cùng kỳ; cây bắp trồng được 59,20 ha (giảm 22,31%), tập trung chủ yếu ở huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Bến Lức, Thủ Thừa; cây đậu phộng trồng được 20,80 ha (giảm 7,10%), tập trung ở huyện Đức Hòa, Đức Huệ, Thạnh Hóa.

Một số cây lâu năm chủ yếu

- Cây thanh long: Diện tích hiện có 8.971,57 ha, tăng 7,69% so cùng kỳ, trồng chủ yếu ở huyện Châu Thành, Tân Trụ, Bến Lức và TP. Tân An. Diện tích cây thanh long có tăng do huyện Châu Thành đang phục hồi lại những diện tích đất trồng đã phá bỏ trước đó và đầu tư chăm sóc lại những diện tích trồng hiện có, các huyện còn lại ít phát triển.

- Cây chanh: Diện tích hiện có 11.728,37 ha, tăng 1,74% so cùng kỳ. Diện tích tăng do trồng cây chanh mang lại hiệu quả kinh tế ổn định nên người dân đã chuyển đổi diện tích một số cây trồng không hiệu quả và cải tạo vườn tạp để phát triển. Trồng chủ yếu ở huyện Bến Lức, Đức Huệ, Đức Hòa, Thủ Thừa và Thạnh Hóa.

Tình hình tiêu thụ

Giá một số nông sản bình quân tháng 7 năm 2023 so với tháng 6/2023 dao động như sau: Lúa vụ hè thu loại thường 6.645 đồng/kg (tăng 158 đồng/kg); lúa đặc sản/chất lượng cao vụ hè thu 7.122 đồng/kg (giảm 13 đồng/kg); nếp 7.369 đồng/kg (giảm 21 đồng/kg); bắp (ngô) hạt khô 8.100 đồng/kg (bằng với tháng trước); thanh long ruột trắng 8.000 đồng/kg (giảm 5.000 đồng/kg); thanh long ruột đỏ 13.389 đồng/kg (giảm 13.366 đồng/kg); chanh không hạt 4.666 đồng/kg (giảm 1.888 đồng/kg),...

b. Chăn nuôi           

Hoạt động chăn nuôi trong tháng 7/2023 tương đối ổn định, công tác kiểm tra, giám sát tình hình dịch bệnh, tiêm phòng vắc-xin trên gia súc, cúm gia cầm được tập trung thực hiện tốt. Ước trong tháng, sản lượng thịt trâu xuất chuồng đạt 38 tấn (tăng 11,76% so với cùng kỳ); thịt bò 480 tấn (giảm 49,47%); thịt lợn 1.856 tấn (tăng 24,56%); thịt gia cầm 4.546 tấn (tăng 1,14%); trứng gia cầm 46.125 nghìn quả (tăng 0,77%), trong đó: thịt gà 3.920 tấn (tăng 1,57%), trứng gà 38.876 nghìn quả (tăng 16,87%). Lũy kế 7 tháng đầu năm 2023, sản lượng thịt trâu xuất chuồng đạt 245 tấn (tăng 23,48% so với cùng kỳ); thịt bò 3.980 tấn (giảm 28,37%); thịt lợn 13.707 tấn (tăng 1,14%); thịt gia cầm 28.229 tấn (tăng 4,30%); trứng gia cầm 292.791 nghìn quả (tăng 5,35%), trong đó: thịt gà 21.840 tấn (tăng 1,80%), trứng gà 248.145 nghìn quả (tăng 10,04%).

Tình hình dịch bệnh: Trong tháng, bệnh dịch tả lợn Châu Phi xảy ra tại 1 hộ chăn nuôi, ấp Hòa Quới, xã Tân Chánh, huyện Cần Đước, tỉnh Long An với tổng số heo tiêu hủy là 11 con, tổng trọng lượng 539 kg. Các bệnh dịch khác không xảy ra.

Từ đầu năm đến nay, bệnh dịch tả lợn Châu Phi đã xảy ra tại 12 hộ thuộc 10 xã ở 5 huyện: Tân Hưng, Mộc Hóa, Vĩnh Hưng, Cần Đước và thành phố Tân An với tổng số heo tiêu hủy là 331 con, tổng trọng lượng 21.143 kg. Bệnh viêm da nổi cục  trên trâu, bò xảy ra tại 4 hộ thuộc 3 xã ở 2 huyện: Tân Hưng và Mộc Hóa với tổng số con bệnh là 4 con, tổng tiêu hủy là 1 con, tổng trọng lượng tiêu hủy 99 kg. Các bệnh còn lại như: bệnh cúm gia cầm, lở mồm long móng, heo tai xanh và bệnh dại trên động vật chưa ghi nhận trường hợp bệnh.

Công tác phòng chống dịch bệnh

Từ đầu năm đến nay, toàn tỉnh đã tiêm 68.378 liều vắc xin phòng bệnh lở mồm long móng; 83.463 liều bệnh dại; 22.110 liều bệnh heo tai xanh; 1.731.474 liều bệnh cúm gia cầm; 52.472 liều bệnh viêm da nổi cục. Phần lớn các hộ chăn nuôi biết áp dụng tốt kỹ thuật hiện đại về chăn nuôi, thực hiện tốt việc tiêm ngừa cho đàn gia súc, gia cầm, vệ sinh chuồng trại thường xuyên.

Tình hình tiêu thụ

Giá sản phẩm chăn nuôi bình quân tháng 7 năm 2023 so với tháng trước dao động như sau: Giá thịt trâu hơi 74.185 đồng/kg (tăng 1.216 đồng/kg); thịt bò hơi 82.645 đồng/kg (tăng 231 đồng/kg); thịt heo hơi 60.377 đồng/kg (tăng 2.400 đồng/kg); gà ta thịt hơi 88.988 đồng/kg (bằng giá với tháng trước); vịt thịt hơi 51.293 đồng/kg (tăng 224 đồng/kg); trứng gà ta 29.860 đồng/10 quả (tăng 28 đồng/10 quả); trứng gà công nghiệp 22.778 đồng/10 quả (tăng 1.730 đồng/10 quả); trứng vịt 27.592 đồng/10 quả (tăng 548 đồng/10 quả);....

2. Lâm nghiệp

Diện tích rừng trồng mới tập trung: Ước tháng 7/2023, trên địa bàn tỉnh có 60 ha diện tích rừng trồng mới (giảm 0,83% so cùng kỳ). Lũy kế từ đầu năm đến nay có 415 ha diện tích rừng trồng mới (giảm 0,62%), diện tích giảm là do nhiều hộ trồng rừng khai thác xong chuyển đổi cây trồng khác.

Tình hình khai thác: Ước tháng 7/2023, sản lượng gỗ khai thác được 12.725 m3, tăng 0,04% so với cùng kỳ, chủ yếu là gỗ bạch đàn, tràm bông vàng, khai thác ở các huyện Đức Huệ, Thạnh Hóa, Tân Hưng và Tân Thạnh; khai thác cây phân tán chủ yếu ở các huyện Đức Huệ, Đức Hòa, Thủ Thừa và Bến Lức. Củi khai thác được 14.322 ster, tăng 0,01% so cùng kỳ. Lũy kế 7 tháng đầu năm 2023, sản lượng gỗ khai thác được 87.275 m3 (tăng 0,67% so với cùng kỳ); củi khai thác 97.172 ster (tăng 3,25%).

Tình hình cháy rừng: Trong tháng trên địa bàn tỉnh không xảy ra cháy rừng, Lũy kế từ đầu năm đến nay, trên địa bàn tỉnh xảy ra 1 vụ cháy rừng, gây thiệt hại 1 ha rừng tràm 2 năm tuổi.

3. Thủy sản

- Thủy sản nuôi trồng: Ước tháng 7/2023, diện tích thả nuôi đạt 783,80 ha, tăng 1,27% so cùng kỳ; năng suất ước đạt 11,54 tấn/ha (tăng 19%); sản lượng ước đạt 7.182,10 tấn (tăng 23,03%). Lũy kế đến nay, diện tích thả nuôi đạt 5.536,40 ha (giảm 1,26%); năng suất 11,18 tấn/ha (tăng 17,11%); sản lượng ước đạt 49.683,40 tấn (tăng 19,37%). Trong đó:

+ Tôm nuôi nước lợ: Trong tháng 7/2023, diện tích thả nuôi được 544 ha, giảm 2,96% so với cùng kỳ, thu hoạch ước đạt 430,50 ha (tăng 0,96%), năng suất ước đạt 4,76 tấn/ha (tăng 52,85%), sản lượng ước đạt 2.050 tấn (tăng 54,32%). Trong đó: diện tích thả nuôi tôm sú đạt 42 ha (tăng 5%), thu hoạch 34 ha (giảm 8,97%), năng suất 2,97 tấn/ha (tăng 36,77%), sản lượng 101,10 tấn (tăng 49,05%); diện tích thả nuôi tôm thẻ chân trắng đạt 502 ha (giảm 3,57%); thu hoạch 396,50 ha (tăng 0,33%), năng suất 4,92 tấn/ha (tăng 54,09%), sản lượng 1.948,90 tấn (tăng 54,60%).

Lũy kế từ đầu năm đến nay diện tích thả nuôi được 3.959,50 ha (giảm 1,70% so cùng kỳ), diện tích thu hoạch ước đạt 3.055,50 ha (tăng 0,41%), năng suất ước đạt 4,83 tấn/ha (tăng 54,77%), sản lượng 14.768,90 tấn (tăng 55,40%), sản lượng tăng so với cùng kỳ là do người dân ở các huyện phía bắc vùng Đồng Tháp Mười đầu tư, phát triển mạnh việc nuôi tôm thẻ nước ngọt. Trong đó: diện tích thả nuôi tôm sú được 311,70 ha (giảm 1,90%), thu hoạch 250,60 ha (giảm 1,62%), năng suất 2,84 tấn/ha (tăng 34,80%), sản lượng 712,30 tấn (tăng 32,61%); diện tích thả nuôi tôm thẻ chân trắng được 3.647,80 ha (giảm 1,68%), thu hoạch 2.804,90 ha (tăng 0,59%), năng suất 5,01 tấn/ha (tăng 55,84%), sản lượng 14.056,60 tấn (tăng 56,76%).

+ Cá tra nuôi công nghiệp: Hiện nay, trên địa bàn tỉnh có 4 doanh nghiệp tư nhân đầu tư nuôi cá tra với quy mô lớn, ước trong tháng các doanh nghiệp thả nuôi 25 ha (tăng 2,04% so với cùng kỳ), năng suất ước đạt 177,66 tấn/ha (tăng 12,52%), sản lượng ước đạt 3.109 tấn (tăng 8,20%). Lũy kế 7 tháng đầu năm 2023, diện tích nuôi 177,30 ha (tăng 5,22%), năng suất ước đạt 314,13 tấn/ha (tăng 99,16%), sản lượng ước đạt 40.805,40 tấn (tăng 105,08%).

- Tình hình tiêu thụ: Giá thủy sản bình quân tháng 7/2023 so với tháng 6/2023 dao động như sau:

+ Tôm sú: Loại 30 con/kg có giá 185.392 đồng/kg (giảm 35.680 đồng/kg); loại 40 con/kg, giá 151.748 đồng/kg (giảm 21.143 đồng/kg); loại từ 40 con/kg trở lên, giá 125.975 đồng/kg (giảm 11.848 đồng/kg).

+ Tôm thẻ chân trắng: Loại cỡ 110 con/kg có giá 78.000 đồng/kg (giảm 2.000 đồng/kg); loại cỡ 80 con/kg, giá 89.403 đồng/kg (giảm 3.657 đồng/kg); loại cỡ 60 con/kg, giá 100.194 đồng/kg (giảm 2.940 đồng/kg); loại cỡ 40 con/kg, giá 122.351 đồng/kg (giảm 2.891 đồng/kg).

+ Thủy sản khác: Cá tra loại size từ 0,7 đến dưới 1 kg/con có giá 20.087 đồng/kg (giảm 593 đồng/kg); loại size từ 1 kg/con trở lên 19.595 đồng/kg (giảm 2.435 đồng/kg); cá diêu hồng dưới 1kg/con 48.823 đồng/kg (bằng giá so với tháng trước); cá mè 25.948 đồng/kg (giảm 385 đồng/kg);…

- Thủy sản khai thác: Trong tháng 7/2023, sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 515,10 tấn, giảm 6,97% so cùng kỳ. Trong đó: khai thác thủy sản biển 257 tấn (giảm 4,63%), bao gồm: tôm ước đạt 74 tấn (giảm 7,67%), cá ước đạt 124 tấn (tăng 20,39%), thủy sản khác ước đạt 59 tấn (giảm 31,65%); khai thác thủy sản nội địa 258,10 tấn (giảm 9,18%), bao gồm: tôm ước đạt 0,7 tấn (giảm 30%), cá ước đạt 224 tấn (giảm 10,47%), thủy sản khác ước đạt 33,40 tấn (tăng 1,21%).

Trong 7 tháng đầu năm 2023, sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 4.002,40 tấn, giảm 2,04% so cùng kỳ. Trong đó, sản lượng khai thác thủy sản biển ước đạt 2.015,34 tấn (giảm 1,56%), bao gồm: tôm ước đạt 545,90 tấn (giảm 1,49%), cá ước đạt 1.072,14 tấn (tăng 0,86%), thủy sản khác ước đạt 397,30 tấn (giảm 7,65%); sản lượng khai thác thủy sản nội địa ước đạt 1.987,06 tấn (giảm 2,51%), bao gồm: tôm ước đạt 6,32 tấn (giảm 8,85%), cá ước đạt 1.751,25 tấn (giảm 2,40%), thủy sản khác ước đạt 229,49 tấn (giảm 3,21%).

II. Sản xuất công nghiệp

Trong tháng 7 năm 2023, tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh ổn định và có xu hướng phục hồi. Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 7/2023 tăng 0,82% so tháng 6/2023 và tăng 11,91% so cùng kỳ năm trước, trong đó: ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,74% so tháng trước và tăng 12,50% so cùng kỳ; ngành công nghiệp điện tăng 2,48% so tháng trước và tăng 2,43% so cùng kỳ; ngành công nghiệp cung cấp nước, xử lý chất thải tăng 0,58% so tháng trước và tăng 10,30% so cùng kỳ.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 7 tháng đầu năm 2023 tăng 4,56% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,67%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 1,40%; ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 10,50%.

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 7 tháng đầu năm 2023 tăng cao so với cùng kỳ năm trước như: sản xuất phương tiện vận tải khác (tăng 70,82%); thoát nước và xử lý nước thải (tăng 65,94%); sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất (tăng 32,70%); ngành sản xuất kim loại (tăng 28,44%);...

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu tháng 7/2023 có mức tăng cao so cùng kỳ như: sắt, thép không hợp kim ở dạng bán thành phẩm (tăng 96,32%); giường bằng gỗ các loại (tăng 60%); bao bì đóng gói khác bằng plastic (tăng 36,35%); dầu và mỡ bôi trơn (tăng 36,29%); phân khoáng hoặc phân hóa học (tăng 34,97%); bộ phận của thiết bị phân phối và điều khiển điện (tăng 33,61%); bia đóng chai (tăng 33,51%); ba lô (tăng 27,21%); cấu kiện nổi khác (tăng 23,42%);....

Lũy kế đến cuối tháng 7 năm 2023 có 31/58 nhóm sản phẩm có tốc độ tăng so cùng kỳ, gồm: 9/31 nhóm sản phẩm tăng trên 20%, trong đó: các loại cấu kiện nổi khác 20,21 tỷ đồng (tăng 70,82%); sắt, thép không hợp kim ở dạng bán thành phẩm 27,44 nghìn tấn (tăng 62,26%); ống khác không nối, mặt cắt hình tròn bằng sắt, thép không hợp kim 454,33 nghìn tấn (tăng 34,74%); cấu kiện làm sẵn cho xây dựng hoặc kỹ thuật dân dụng, bằng xi măng, bê tông hoặc đá nhân tạo 280,45 nghìn tấn (tăng 20,82%); giường bằng gỗ các loại 4,97 nghìn chiếc (tăng 31,60%);... Có 10/31 nhóm sản phẩm tăng từ 10-20%, trong đó: ba lô 8,98 triệu cái (tăng 19,41%); gạo đã xay xát 408,88 nghìn tấn (tăng 17,81%); cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 61,64 nghìn tấn (tăng 15,85%); ván ép từ gỗ 140,83 nghìn m3 (tăng 11,19%); bộ phận của thiết bị phân phối và điều khiển điện 850 tấn (tăng 10,10%);... Có 12/31 nhóm sản phẩm tăng dưới 10%, trong đó: nước uống được 44,91 triệu m3 (tăng 8,47%); nước khoáng không có ga 198,72 triệu lít (tăng 8,13%); hạt điều khô 37,50 nghìn tấn (tăng 5,25%); dịch vụ sản xuất hoá dược và dược liệu 32,93 tỷ đồng (tăng 4,43%); điện thương phẩm 3.994 triệu KWh (tăng 1,73%);...

Có 27/58 nhóm sản phẩm có tốc độ giảm so cùng kỳ, gồm: 5/27 nhóm sản phẩm có tốc độ giảm trên 20%, giảm cao nhất là nhóm sản phẩm áo sơ mi cho người lớn không dệt kim hoặc đan móc 745,05 nghìn cái (giảm 48,96%); thiết bị bán dẫn khác 2.421 nghìn chiếc (giảm 43,78%); dịch vụ lắp đặt cho máy thông dụng khác 5,29 tỷ đồng (giảm 39,06%); áo sơ mi cho người lớn dệt kim hoặc đan móc 10,75 triệu cái (giảm 35,71%); bia đóng chai 840,03 nghìn lít (giảm 26,97%). Có 6/27 nhóm sản phẩm giảm từ 10-20%, gồm: xi măng portland đen 410,81 nghìn tấn (giảm 19,27%); dây cách điện đơn dạng cuộn bằng đồng 1,73 nghìn tấn (giảm 18,64%); sợi từ bông nhân tạo 9,18 nghìn tấn (giảm 16,37%); thân xe có động cơ dùng cho xe vận tải hàng hóa và xe chở từ 10 người trở lên 494 cái (giảm 14,83%); dầu và mỡ bôi trơn 3,62 nghìn tấn (giảm 11,64%); sản phẩm gia dụng và sản phẩm phục vụ vệ sinh khác bằng plastic 80,82 nghìn tấn (giảm 10,39%). Có 16/27 nhóm sản phẩm giảm dưới 10%, trong đó: sản phẩm in khác 2,93 tỷ trang (giảm 8,53%); túi xách 8,97 triệu cái (giảm 7,50%); bia đóng lon 9,03 triệu lít (giảm 6,55%); thức ăn cho gia súc 381,54 nghìn tấn (giảm 5,03%); thuốc lá có đầu lọc 58,58 triệu bao (giảm 3,57%); bê tông trộn sẵn 338,86 nghìn m3 (giảm 2,98%);....

Chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp tháng 7/2023 tăng 0,26% so với tháng trước và giảm 8,30% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,27% so với tháng trước và giảm 8,47% so cùng kỳ; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 0,26% so với tháng trước và giảm 1,21% so cùng kỳ; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải bằng với tháng trước và tăng 1,96% so cùng kỳ. Lũy kế đến cuối tháng 7/2023, chỉ số sử dụng lao động của các doanh nghiệp công nghiệp giảm 7,81% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm 7,96%; ngành sản xuất và phân phối điện giảm 1,06%; ngành cung cấp nước, xử lý nước thải, rác thải tăng 2,03%.

III. Hoạt động doanh nghiệp

Trong tháng có 240 doanh nghiệp thành lập mới (tăng 24,4% so cùng kỳ), tổng số vốn đăng ký 2.730 tỷ đồng (tăng 58,4%); có 34 doanh nghiệp thông báo tạm ngừng hoạt động và hiện nay đã có thông báo hoạt động trở lại (tăng 41,7%); có 73 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động kinh doanh (tăng 55% ); giải thể 31 doanh nghiệp (giảm 3%).

Trong 7 tháng đầu năm 2023, có 1.041 doanh nghiệp được thành lập mới (bằng cùng kỳ), tổng số vốn đăng ký 12.121 tỷ đồng (giảm 12,7%); có 218 doanh nghiệp thông báo tạm dừng hoạt động và hiện nay đã có thông báo hoạt động trở lại (tăng 14%); tạm ngừng hoạt động kinh doanh 499 doanh nghiệp (tăng 36,4%); giải thể 48 doanh nghiệp (tăng 4%).  

IV. Đầu tư phát triển

Công tác quản lý, giám sát chặt chẽ đầu tư công được UBND tỉnh quan tâm thực hiện theo đúng quy định của pháp luật và kịp thời tháo gỡ các khó khăn vướng mắc về thủ tục, trình tự đấu thầu, thẩm định. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, có hiệu quả trong việc đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công năm 2023, thực hiện công tác bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư.

Ước thực hiện vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách nhà nước do địa phương quản lý tháng 7 năm 2023 đạt 1.019,72 tỷ đồng, bằng 11,79% so với kế hoạch, tăng 22,59% so tháng trước và tăng 43,88% so cùng kỳ. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 741,88 tỷ đồng, bằng 11,79% so với kế hoạch, tăng 18,32% so tháng trước và tăng 49,46% so cùng kỳ năm trước; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 277,84 tỷ đồng, bằng 14,02% so với kế hoạch, tăng 35,65% so tháng trước và tăng 30,83% so cùng kỳ.

Lũy kế 7 tháng đầu năm 2023 vốn đầu tư phát triển thuộc ngân sách nhà nước do tỉnh quản lý ước đạt 3.846,78 tỷ đồng, bằng 44,47% so với kế hoạch và tăng 29% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 2.890,09 tỷ đồng, bằng 43,33% so với kế hoạch, tăng 33,88% so cùng kỳ; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 956,69 tỷ đồng, bằng 48,29% so với kế hoạch và tăng 16,21% so cùng kỳ.

V. Thương mại, giá cả

1. Nội thương

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước tháng 7 năm 2023 đạt 7.406,81 tỷ đồng, tăng 4,69% so tháng trước và tăng 22,02% so với cùng kỳ; trong đó, doanh thu bán lẻ hàng hóa ước đạt 4.823,05 tỷ đồng, tăng 4,81% so với tháng trước, tăng 16,13% so với cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước đạt 507,16 tỷ đồng, tăng 0,15% so với tháng trước và tăng 57,20% so với cùng kỳ (doanh thu lưu trú ước đạt 29,82 tỷ đồng, tăng 3,01% so với tháng trước và tăng 67,71% so cùng kỳ; dịch vụ ăn uống ước đạt 472,45 tỷ đồng, giảm 0,10% so với tháng trước và tăng 59,02% so cùng kỳ; dịch vụ du lịch lữ hành ước đạt 4,89 tỷ đồng, tăng 8,06% so tháng trước và giảm 36,79% so cùng kỳ); doanh thu dịch vụ khác ước đạt 2.076,60 tỷ đồng, tăng 5,56% so với tháng trước và tăng 30,25% so với cùng kỳ.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 7 tháng đầu năm 2023 ước đạt 51.715,18 tỷ đồng (tăng 12,37% so cùng kỳ). Trong đó, bán lẻ hàng hóa ước đạt 34.018,44 tỷ đồng (tăng 9,47%); dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước đạt 3.619,29 tỷ đồng (tăng 37,54%); dịch vụ khác ước đạt 14.077,45 tỷ đồng (tăng 14,32%).

2. Giá cả

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 7/2023 tăng 0,40% so với tháng trước và tăng 3,38% so với cùng kỳ. Có 9/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng so với tháng trước, trong đó: nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng cao nhất 4,30% (chủ yếu do giá tăng vào một số mặt hàng như túi xách, va ly, ví tăng 1,17%; cắt tóc gội đầu tăng 0,61%; dịch vụ chăm sóc cá nhân tăng 1,38%; vật dụng tang lễ, thờ cúng tăng 1,50%; bảo hiểm y tế tăng 20,81% do tăng mức lương cơ sở từ mức 1.490.000 đồng lên 1.800.000 đồng), đóng góp vào mức tăng chung CPI 0,13 điểm phần trăm; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,71%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,57%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,23%; nhóm giáo dục tăng 0,16%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,15%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,13%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 0,09%; nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,03%. Có 1/11 nhóm có CPI không đổi so với tháng trước là nhóm thuốc và dịch vụ y tế. Có 1/11 nhóm có chỉ số giá giảm so với tháng trước là nhóm giao thông giảm 0,12% (giá xăng giảm 0,12% so với tháng trước nguyên nhân giá xăng, dầu trong nước được điều chỉnh 3 kỳ trong tháng vào các ngày 3/7/2023; 11/7/2023 và 21/7/2023), góp phần vào mức giảm chung CPI là 0,01 điểm phần trăm.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 7 tháng đầu năm 2023 tăng 4,52% so với cùng kỳ năm trước. Có 10/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng so với cùng kỳ, trong đó: nhóm giáo dục tăng 28,01%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 9,83%; nhóm may mặc, mũ nón, giày dép tăng 4,77%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 3,70%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,07%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,58%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,19%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,49%; nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,43%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,23%. Riêng nhóm giao thông giảm 7,39% so với cùng kỳ.

Chỉ số giá vàng tháng 7/2023 giảm 0,19% so với tháng trước, tăng 5,40% so với cùng kỳ năm trước, tăng 4,29% so với tháng 12 năm 2022; chỉ số giá đô la Mỹ tháng 7/2023 tăng 0,52% so với tháng trước, tăng 1,30% so với cùng kỳ năm trước, giảm 1,68% so với tháng 12 năm 2022. Bình quân 7 tháng đầu năm 2023 chỉ số giá vàng tăng 2,16% so với cùng kỳ năm trước; chỉ số giá đô la Mỹ tăng 2,65%.

VI. Vận tải, du lịch

Vận tải: Tổng doanh thu vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải tháng 7 năm 2023 ước đạt 446,74 tỷ đồng, tăng 1,65% so tháng trước và tăng 35,72% so cùng kỳ. Trong đó, doanh thu vận tải hành khách ước đạt 69,95 tỷ đồng, tăng 6,03% so tháng trước và tăng 50,33% so cùng kỳ; khối lượng vận chuyển hành khách ước đạt 1,98 triệu lượt người, tăng 3,25% so tháng trước và tăng 47,05% so cùng kỳ. Khối lượng luân chuyển hành khách ước đạt 53,89 triệu lượt người.km, tăng 4,90% so tháng trước và tăng 45,96% so cùng kỳ. Doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 173,12 tỷ đồng, tăng 1,42% so tháng trước và tăng 24,43% so cùng kỳ; khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 1,73 triệu tấn, tăng 0,76% so tháng trước và tăng 22,21% so cùng kỳ; khối lượng luân chuyển hàng hóa ước đạt 78,74 triệu tấn.km, tăng 1,20% so với tháng trước và tăng 23,56% so cùng kỳ.

Tổng doanh thu vận tải và dịch vụ hỗ trợ vận tải trong 7 tháng đầu năm 2023 ước đạt 2.414,85 tỷ đồng, tăng 17,23% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: Doanh thu vận tải hành khách đạt 310,98 tỷ đồng (tăng 21,60%); khối lượng vận chuyển hành khách ước đạt 10,30 triệu lượt người (tăng 17,42%); luân chuyển hành khách ước đạt 266,46 triệu lượt người.km (tăng 17,09%). Doanh thu vận tải hàng hóa đạt 1.051,34 tỷ đồng (tăng 15,92%); khối lượng vận chuyển hàng hóa ước đạt 11,91 triệu tấn (tăng 11,38%); luân chuyển hàng hóa ước đạt 549,13 triệu tấn.km (tăng 11,78%).

Du lịch: Hoạt động du lịch trên địa bàn tỉnh dần được phục hồi, công tác tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu thông tin du lịch, văn hóa, lễ hội, ẩm thực được quan tâm thực hiện. Khách du lịch đến Long An trong tháng 7/2023 ước đạt 50 ngàn lượt khách, tăng 50% so cùng kỳ (khách du lịch quốc tế 800 lượt khách); doanh thu ước đạt 30 tỷ đồng, tăng 30% so với cùng kỳ.

VII. Tài chính, tiền tệ

Tài chính: Lũy kế từ đầu năm đến ngày 27/7/2023, thu ngân sách nhà nước đạt 10.964,81 tỷ đồng, đạt 54,39% dự toán và giảm 20,21% so cùng kỳ. Trong đó: thu nội địa đạt 9.192,31 tỷ đồng, bằng 58,59% dự toán và giảm 17,32% so cùng kỳ; thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 1.772,50 tỷ đồng, bằng 39,65% dự toán và giảm 32,44% so cùng kỳ.

Tổng chi ngân sách địa phương là 12.222,28 tỷ đồng, đạt 64,58% dự toán tỉnh giao và tăng 40,98% so cùng kỳ. Trong đó, chi đầu tư phát triển là 7.708,98 tỷ đồng, đạt 128,66% dự toán và tăng 83,62% so cùng kỳ; chi thường xuyên là 4.507,04 tỷ đồng, đạt 49,69% dự toán và tăng 0,84% so cùng kỳ.

Tiền tệ: Tổng nguồn vốn huy động đến cuối tháng 7/2023 ước đạt 98.894 tỷ đồng, tăng 6,77% so với đầu năm và tăng 5,28% so cùng thời điểm năm trước; tổng dư nợ tín dụng ước đạt 125.414 tỷ đồng, tăng 6,22% so với đầu năm và tăng 11,32% so cùng thời điểm năm trước, trong đó: nợ xấu 1.504 tỷ đồng, tăng 41,49% so với đầu năm và tăng 215,97% so cùng thời điểm năm trước.

VIII. Một số vấn đề xã hội

1. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội

Trong tháng 7 năm 2023, công tác an sinh trên địa bàn tỉnh tiếp tục được đảm bảo, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện. Công tác chăm lo đời sống, người có công với cách mạng được duy trì, đảm bảo thực hiện.

Thực hiện hiệu quả chính sách, pháp luật về chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em, chủ động giải quyết các vấn đề về trẻ em và phòng ngừa, giảm thiểu các nguy cơ gây tổn hại cho trẻ em.

2. Giáo dục

Trong tháng 7 năm 2023, Ngành Giáo dục và Đào tạo chấm điểm, công bố kết quả và chấm điểm phúc khảo kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023 đảm bảo an toàn, nghiêm túc và đúng quy chế. Kết quả thí sinh đỗ tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2023 là 15.134 thí sinh, đạt tỷ lệ 99,7%, tăng so với năm 2022 (tỷ lệ 99,6%).

Hoàn chỉnh các văn bản chuẩn bị tổ chức Hội nghị tổng kết năm học 2022-2023 và triển khai phương hướng, nhiệm vụ năm học 2023-2024. Tiếp tục tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho giáo viên; tổ chức bồi dưỡng Mô đun 6,7,8 môn Toán Lớp 1,2,3,4; Đạo Đức và môn Hoạt động trải nghiệm, Tự nhiên - xã hội Lớp 1,2,3 và tập huấn hướng dẫn nội dung giáo dục STEM cấp tiểu học; bồi dưỡng thay sách giáo khoa lớp 8, lớp 11 và mua sắm thiết bị dạy học năm học 2023- 2024.

3. Y tế

Thực hiện truyền thông trên mọi lĩnh vực để mọi người dân nâng cao ý thức trong phòng, chống dịch sốt xuất huyết, cảm cúm, tay chân miệng và một số dịch bệnh khác. Tăng cường giám sát và xử lý ổ dịch sốt xuất huyết nhỏ, đạt hiệu quả khống chế không để dịch bùng phát và kéo dài lây lan ra cộng đồng.

Một số bệnh ghi nhận đến cuối tháng 6/2023 như: Bệnh sốt xuất huyết ghi nhận 1.744 ca, giảm 64,14% so với cùng kỳ, tử vong 1 ca (giảm 80%); bệnh tay chân miệng 560 ca (giảm 23,39%), tử vong 1 ca (tăng 1 ca so cùng kỳ); bệnh quai bị 6 ca (giảm 33,33%); bệnh thủy đậu 91 ca (tăng 102,22%); bệnh tiêu chảy 782 ca (giảm 6,01%); bệnh viêm gan siêu vi B 1.438 ca (tăng 1,41%); bệnh cảm cúm 3.554 ca (tăng 6,76%);...

Tổng số ca nhiễm HIV được phát hiện từ đầu năm đến cuối tháng 6 năm 2023 là 233 ca (tăng 24,60% so với cùng kỳ). Số bệnh nhân còn sống đang được quản lý là 3.347 nội tỉnh và 776 ca ngoại tỉnh. Trong 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh không xảy ra ngộ độc thực phẩm.

4. Lao động, việc làm

Trong tháng 7/2023, tỉnh đã tổ chức thẩm định, cấp 53 giấy phép lao động cho người lao động nước ngoài; thẩm định nội quy lao động 13 doanh nghiệp; thẩm định, xác nhận 19 doanh nghiệp khai báo các máy, thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động với 229 thiết bị. Có 3.484 người đăng ký bảo hiểm thất nghiệp, lũy kế 22.263 người; trong đó xét duyệt 3.625 người, lũy kế 19.204 người; chi trợ cấp thất nghiệp 84,1 tỷ đồng, lũy kế 470,9 tỷ đồng; 16.599 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm, lũy kế 90.712 lượt người; 68 người được hỗ trợ học nghề, lũy kế 436 người. Tuyển sinh đào tạo 1.558 lao động, lũy kế 10.663 lao động (51 trình độ cao đẳng, 1.727 trung cấp, 4.589 sơ cấp và 4.296 lao động thường xuyên dưới 3 tháng).

5. Văn hóa - thể thao

Văn hóa: Trong tháng 7, toàn tỉnh tập trung thực hiện tốt công tác tuyên truyền các ngày lễ của đất nước như: kỷ niệm ngày Gia đình Việt Nam và Tháng hành động quốc gia về phòng, chống bạo lực gia đình; ngày Thương binh Liệt sĩ (27/7) và tuyên truyền chuyển đổi số, cải cách hành chính, phòng chống dịch Covid-19, an toàn thực phẩm, an toàn giao thông, phòng cháy chữa cháy… với các hình thức tuyên truyền trực quan (545 tấm băng rôn, pa nô), thông tin lưu động (120 lượt xe tuyên truyền lưu động), thay đổi khẩu hiệu trên pano điện tử, trang trí cờ các loại và đăng bài tuyên truyền lên trang thông tin điện tử trên địa bàn 15 huyện, thị xã, thành phố.

Hệ thống thư viện từ tỉnh đến huyện tổ chức nhiều hoạt động trưng bày, giới thiệu sách. Trong đó, Bảo tàng - Thư viện tỉnh thực hiện trưng bày, giới thiệu 760 bản sách mới và 380 bản sách chuyên đề; phục vụ 280 lượt bạn đọc với 1.421 lượt tài liệu; 33.809 lượt truy cập thư viện điện tử. Thực hiện 35 bài, tin trên bản tin thư viện với chủ đề chào mừng Ngày Gia đình Việt Nam.

Thể thao: Trong tháng 7, Đoàn thể thao tỉnh Long An đã đóng góp cho Đoàn thể thao Việt Nam thi đấu giải AVC Challenge Cup 2023 tại Indonesia với 3 vận động viên ở môn bóng chuyền nữ và đạt cúp vô địch. Tham gia thi đấu giải vô địch Bơi trẻ quốc gia tại Đà Nẵng đạt 11 huy chương vàng, 01 huy chương bạc, 8 huy chương đồng. Ngoài ra, tỉnh đã tổ chức các trận thi đấu thuộc Giải Bóng đá hạng Nhất quốc gia - Bia Sao Vàng năm 2023 giữa Long An - Bình Thuận, Long An - Huế.

6. Tình hình cháy nổ, bảo vệ môi trường

Cháy nổ: Trong tháng 7 năm 2023 (từ 15/6/2023 đến 14/7/2023) trên địa bàn tỉnh không phát sinh vụ cháy, nổ.

Lũy kế từ đầu năm đến ngày 14/7/2023, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 4 vụ cháy (tăng 2 vụ so với cùng kỳ năm trước), 1 người chết (tăng 1 người) và không có người bị thương, tổng giá trị thiệt hại là 5.010 triệu đồng (tăng 2.010 triệu đồng).

Bảo vệ môi trường: Tháng 7 năm 2023 (từ 5/6/2023 đến 4/7/2023) trên địa bàn tỉnh không phát hiện vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường.

Trong 7 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh đã phát hiện và xử phạt 5 vụ vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường (tăng 1 vụ so với cùng kỳ), tổng số tiền phạt 511,72 triệu đồng (tăng 103,02 triệu đồng).

7. Tai nạn giao thông

Trong tháng 7 năm 2023 (từ 15/6/2023 đến 14/7/2023) trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 26 vụ tai nạn giao thông (tăng 4 vụ so tháng trước và tăng 17 vụ so cùng kỳ), làm chết 24 người (tăng 9 người so với tháng trước và tăng 17 người so cùng kỳ), có 16 người bị thương (tăng 4 người so với tháng trước và tăng 10 người so cùng kỳ).

Từ đầu năm đến ngày 14/7/2023, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 81 vụ tai nạn giao thông (tăng 2 vụ so cùng kỳ năm trước), làm chết 57 người (tăng 5 người), bị thương 38 người (giảm 2 người).

Bieu KT_XH 7.2023.xlsx

INFOGRAPHIC tháng 7.2023.docx


image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1