image banner
Thông cáo báo chí tình hình kinh tế - xã hội quý IV và năm 2022

Trong năm 2022, tình hình thế giới có nhiều biến động nhanh, phức tạp, nhất là cuộc xung đột tại Ukraina, cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, giá dầu thô, hàng hóa cơ bản tăng mạnh, chuỗi cung ứng bị gián đoạn, lạm phát tăng cao tại nhiều quốc gia, đối tác lớn. Trong nước, trong tỉnh dịch bệnh Covid-19 đã được kiểm soát, tạo điều kiện thuận lợi cho phục hồi và phát triển kinh tế, nhưng giá xăng dầu, chi phí đầu vào, vận tải tăng cao,… ảnh hưởng đến nhiều ngành, lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh và đời sống người dân. Trước bối cảnh đó, dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sâu sát của Tỉnh ủy, sự đồng hành, ủng hộ của Hội đồng nhân dân tỉnh, sự chung sức, đồng lòng, quyết tâm cao của người dân, doanh nghiệp; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, thống nhất kịp thời, linh hoạt, hiệu quả, có trọng tâm, trọng điểm các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực của Chính quyền các cấp nên tình hình kinh tế - xã hội dần được phục hồi và đạt được nhiều kết quả tích cực. Kết quả cụ thể từng lĩnh vực như sau:

1. Tổng sản phẩm trong tỉnh

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) ước cả năm 2022 tăng 8,46%[1], đạt được mức tăng trưởng trên là do sự phục hồi tích cực của nền kinh tế, các hoạt động sản xuất kinh doanh trên địa bàn tỉnh dần lấy lại đà tăng trưởng sau khoảng thời gian bị tác động nặng nề từ dịch Covid-19, đặc biệt trong quý III/2022 với mức tăng khá cao 19,07% cho thấy chính sách phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội của Chính phủ, sự điều hành, chỉ đạo sát sao của UBND tỉnh, các cấp, các ngành đã phát huy hiệu quả; trong đó, khu vực I (nông, lâm, thủy sản) tăng 0,71%; khu vực II (công nghiệp, xây dựng) tăng 10,86%; khu vực III (thương mại, dịch vụ) tăng 9,95%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 4,86%[2]. Dù chưa đạt được kỳ vọng nhưng đây là mức tăng trưởng rất phấn khởi, đứng thứ 6/13[3] tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long và thứ 4/8[4] tỉnh vùng Kinh tế trọng điểm phía nam, trong bối cảnh tình hình kinh tế, chính trị thế giới biến động khó lường, lạm phát tăng cao, dịch Covid-19 vẫn còn bùng phát đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế của tỉnh, đặt biệt trong quý IV khi mức tăng trưởng chỉ đạt 4,67% đây là mức tăng trưởng thấp nhất trong các quý của năm 2022, do xuất khẩu chững lại khi tổng cầu thế giới suy giảm, các doanh nghiệp phải giảm giờ làm do thiếu đơn hàng, tiêu dùng nội tỉnh có phần chậm lại khi người lao động có xu hướng tiết kiệm hơn trong chi tiêu.

Khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản trong năm 2022 gặp nhiều khó khăn ước tăng 0,71% so cùng kỳ (cùng kỳ tăng 3,42%), đóng góp 0,12 điểm phần trăm vào tốc độ tăng GRDP. Trong đó: nông nghiệp ước tính giảm 0,46% (cùng kỳ tăng 3,70%); lâm nghiệp ước tăng 0,37% (cùng kỳ tăng 0,21%); thủy sản ước tính tăng 18,21% (cùng kỳ tăng 0,44%).

Khu vực công nghiệp và xây dựng có xu hướng phục hồi nhanh nhưng chưa bền vững. Ngành công nghiệp năm 2022 ước tăng 11,15% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ tăng 0,44%), đóng góp 4,98 điểm phần trăm vào tốc độ tăng tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh. Trong đó, công nghiệp chế biến, chế tạo là động lực tăng trưởng của toàn nền kinh tế với tốc độ tăng 11,29% (cùng kỳ tăng 0,28%), đóng góp 4,87 điểm phần trăm. Ngành xây dựng bị tác động mạnh từ việc chi phí nguyên vật liệu tăng cao và thị trường bất động sản bị đóng băng, tăng trưởng trong quý IV chỉ đạt 0,56% và ước cả năm đạt 7,91% (năm 2021 tăng 1,91%).

Khu vực dịch vụ cho thấy đà phục hồi rất mạnh mẽ, tăng trưởng của cả khu vực đạt 9,95% (cùng kỳ tăng 0,88%), đóng góp 2,68 điểm phần trăm vào tốc độ tăng GRDP. Góp phần lớn vào đà phục hồi của cả khu vực là do tỉnh sớm kiểm soát được dịch bệnh, các hoạt động sản xuất kinh doanh nhanh chóng trở lại bình thường, thu nhập của người lao động tăng lên thúc đẩy nhu cầu mua sắm, tiêu dùng, cụ thể: ngành thương mại ước tăng 13,09% so cùng kỳ năm trước (cùng kỳ giảm 3,48%); ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống tăng 21,5%; ngành nghệ thuật vui chơi giải trí tăng 23,32%; ngành hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 11,66%; ngành kinh doanh bất động sản tăng 8,93%; ngành vận tải, kho bãi tăng 7,42%. Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội là ngành duy nhất trong 14 ngành dịch vụ có phát sinh hoạt động trên địa bàn tỉnh có mức tăng trưởng âm, giảm 18,82% (cùng kỳ tăng đến 55,12%), khi các khoản chi hỗ trợ, phục vụ cho công tác phòng chống dịch Covid-19 trong năm nay không còn phát sinh như cùng kỳ. Các ngành dịch vụ khác cơ bản đã phục hồi và duy trì được mức tăng trưởng ổn định như thời điểm trước khi dịch bệnh xảy ra.

Về cơ cấu nền kinh tế năm 2022, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 14,73% GRDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 52,33%; khu vực dịch vụ chiếm 26,66%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,28% (cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2021 là: 16,14%; 50,39%; 26,96%; 6,51%).

GRDP bình quân đầu người theo giá hiện hành năm 2022 đạt 90,2 triệu đồng, tăng 13,4% so với năm 2021. Sau nhiều năm đứng sau Tp. Cần Thơ, thì đến năm 2019, GRDP bình quân đầu người của Long An đã vượt lên dẫn đầu vùng, đạt 72,80 triệu đồng, cao hơn Tp. Cần Thơ 0,14 triệu đồng. Đến năm 2022 đã hơn Tp. Cần Thơ đến 4,17 triệu đồng; hơn tỉnh có GRDP bình quân đầu người nhỏ nhất vùng là Bến Tre đến 41,17 triệu đồng và cao hơn GRDP bình quân đầu người vùng đến 24,47 triệu đồng.

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

Năm 2022 là năm khó khăn cho hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản khi thời tiết biến đổi bất thường, nắng nóng đầu vụ, mưa vào thời điểm lúa trổ và gần thu hoạch làm cho lúa bị đổ ngã, ngập úng; sâu rầy, dịch hại trên đồng ruộng diễn biến phức tạp gây hại trên diện tích lúa gieo sạ sớm làm ảnh hưởng đến năng suất, chất lượng. Giá cả vật tư đầu vào, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, giá xăng dầu tăng rất cao, công lao động khan hiếm làm cho chi phí sản xuất tăng, dẫn đến lợi nhuận thu được của người nông dân thấp hơn rất nhiều so với cùng kỳ năm trước. Ngoài ra, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 nên giá cả nông sản đầu ra không ổn định, tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn, đặt biệt là quả thanh long, diện tích trồng ngày càng thu hẹp người dân ít đầu tư, chăm sóc do đó sản lượng thanh long cả năm ước giảm đến 20,4% so với cùng kỳ. Điểm sáng của khu vực I chủ yếu ở ngành nuôi trồng thủy sản, khi sản lượng cá tra thương phẩm tăng mạnh (tăng 32%), nuôi tôm thẻ (tăng 16,9%).

a. Nông nghiệp        

Cây lúa: Tổng diện tích xuống giống năm 2022[5] (gồm vụ mùa 2021-2022, vụ đông xuân 2021-2022, vụ hè thu 2022 và vụ thu đông 2022) đạt 509.058 ha, giảm 0,45% so cùng kỳ năm trước; năng suất gieo trồng đạt 56,3 tạ/ha (giảm 1,63%); sản lượng thu hoạch đạt 2.864.872 tấn (giảm 2,07%).

Một số cây hàng năm khác: Cây mía trồng được 26,5 ha (giảm 57,28% so cùng kỳ), năng suất đạt 407 tạ/ha (giảm 31,11%), sản lượng đạt 1.079,8 tấn (giảm 70,57%); cây bắp trồng được 303,2 ha (giảm 9,07% so cùng kỳ), năng suất đạt 54,9 tạ/ha (tăng 14,82%), sản lượng đạt 1.665,5 tấn (tăng 4,4%); cây đậu phộng trồng được 171,3 ha (giảm 37% so cùng kỳ), năng suất đạt 30,2 tạ/ha (giảm 2,47%), sản lượng đạt 516,8 tấn (giảm 38,56%); cây mỳ (sắn) trồng được 700 ha (giảm 50,3% so cùng kỳ), năng suất đạt 90,3 tạ/ha (giảm 34,41%), sản lượng đạt 6.317,8 tấn (giảm 67,4%); rau các loại trồng được 11.538 ha (tăng 5,28% so cùng kỳ), năng suất đạt 202,8 tạ/ha (tăng 6,67%), sản lượng đạt 233.960 tấn (tăng 12,29%); mè trồng được 897,3 ha (tăng 17,34% so cùng kỳ), năng suất đạt 7,5 tạ/ha (tăng 1,19%), sản lượng đạt 674,7 tấn (tăng 18,74%); khoai mỡ trồng được 2.789,2 ha (tăng 3,95% so cùng kỳ), năng suất đạt 151,1 tạ/ha (giảm 15,02%), sản lượng đạt 42.142,8 tấn (giảm 11,66%).

Một số cây lâu năm chủ yếu: Cây thanh long diện tích ước tính 8.324,7 ha (giảm 28,56% so cùng thời điểm năm trước), sản lượng ước đạt 259.286,3 tấn (giảm 20,4% so với cùng kỳ); cây chanh diện tích ước tính 11.526,5 ha (tăng 0,91%), sản lượng ước đạt 184.301,9 tấn (tăng 7,63%); cây xoài diện tích ước có 480,1 ha (giảm 11,75%), sản lượng ước đạt 4.529 tấn (tăng 8,93%); cây dứa (thơm) diện tích hiện có 841,2 ha (giảm 5,5%), sản lượng ước đạt 18.582,1 tấn (tăng 10,87%); cây dừa diện tích ước tính 1.961,8 ha (tăng 40,04%), sản lượng ước đạt 29.440,2 tấn (tăng 57,5%); cây mai diện tích ước tính 2.385,1 ha (tăng 32,4%), sản lượng ước đạt 785.107 cây/cành (tăng 55,58%); cây chuối diện tích ước có 795,1 ha (tăng 5,02%), sản lượng ước đạt 13.430,9 tấn (tăng 44,63%); cây mít diện tích ước có 2.661,1 ha (tăng 9,51%), sản lượng ước đạt 32.220,1 tấn (tăng 58,42%); cây ổi diện tích ước có 434,3 ha (giảm 5,34%), sản lượng ước đạt 6.994,7 tấn (tăng 1,01%); cây cao su diện tích ước có 95,6 ha (giảm 6,09%), sản lượng ước đạt 89,1 tấn (giảm 20,38%).

Chăn nuôi: Tại thời điểm 31/12/2022, đàn trâu có 6.020 con (giảm 0,2% so cùng thời điểm năm trước); đàn bò có 117.900 con (tăng 1,1%), trong đó: bò sữa có 20.500 con (tăng 1,4%); đàn dê có 8.250 con (tăng 0,5%); đàn heo có 119.555 con (tăng 3,5%); đàn gia cầm có 7.677,59 ngàn con (giảm 13,3%), trong đó: gà là 6.200 ngàn con (giảm 14,7%). Ước cả năm 2022, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng là 490,2 tấn (giảm 1,5% so cùng kỳ); bò là 5.095 tấn (tăng 14%); dê là 63,95 tấn (tăng 0,2%); lợn là 25.043,4 tấn (tăng 37,9%); gà là 31.813,3 tấn (tăng 2,3%); vịt, ngan, ngỗng là 7.786,3 tấn (giảm 17,29%). Sản lượng trứng gà là 410,17 triệu quả (giảm 21,3%); vịt, ngan, ngỗng là 83,51 triệu quả (giảm 19,01%). Sản lượng sữa bò tươi là 38.750 tấn (tăng 5%).

b. Lâm nghiệp

Trong năm 2022, diện tích rừng trồng mới của tỉnh là 650 ha (giảm 10,2% so cùng kỳ), diện tích giảm chủ yếu do người dân khai thác xong chuyển cây trồng khác. Cây phân tán trồng được 1.650 nghìn cây (tăng 32,3% so cùng kỳ), trồng chủ yếu từ hộ gia đình và các xã được phân bổ. Khai thác được 139.145 m3 gỗ (tăng 0,3% so cùng kỳ); Củi khai thác được 260.100 ster (tăng 1,7%); Tre khai thác được 948 nghìn cây (giảm 0,9%).

c. Thủy sản

Tổng sản lượng thủy sản năm 2022 ước đạt 82.043,2 tấn, tăng 14,4% so cùng kỳ, bao gồm: Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 75.155,9 tấn, tăng 15,2% so cùng kỳ. Trong đó, tôm sú đạt 963,4 tấn (giảm 21%), tôm thẻ chân trắng đạt 17.400,6 tấn (tăng 16,9%), cá tra nuôi công nghiệp đạt 40.431,9 tấn (tăng 32%). Sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 6.887,2 tấn, tăng 6,4% so cùng kỳ. Trong đó, khai thác biển đạt 3.598,8 tấn (tăng 10,69%), khai thác nội địa đạt 3.288,4 tấn (tăng 2,04%).

3. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp quý IV năm 2022 tăng 0,32% so quý trước và tăng 4,53% so cùng kỳ. Trong đó: công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 0,35% so quý trước và tăng 4,73% so cùng kỳ, công nghiệp điện giảm 1,88% so quý trước và giảm 0,41% so cùng kỳ, công nghiệp cung cấp nước, xử lý chất thải tăng 7,32% so quý trước và tăng 10,56% so cùng kỳ.

Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2022 tăng 9,32% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,48%, công nghiệp điện tăng 7,15% và công nghiệp cung cấp nước, xử lý chất thải tăng 5,44%.

Lũy kế cả năm 2022 có 45/65 nhóm sản phẩm có tốc độ tăng so cùng kỳ, trong đó có 19/45 nhóm sản phẩm tăng trên 20% như: nhóm gạo xay xát 628,39 nghìn tấn (tăng 29,74%); nhóm thuốc chứa pênixilin hoặc kháng sinh khác dạng viên 756 triệu viên (tăng 33,57%); nhóm áo phông (T-shirt), áo may ô và các loại áo lót khác cho người lớn dệt kim hoặc đan móc 5.953 nghìn cái (tăng 46,73%); nhóm dịch vụ phụ thuộc liên quan đến in 322,38 tỷ đồng (tăng 64,47%);…Có 13/45 nhóm sản phẩm tăng từ 10% - 20% như: nhóm thuốc lá có đầu lọc 102,51 triệu bao (tăng 10,44%); nhóm hạt điều khô 66,54 nghìn tấn (tăng 13,90%); nhóm giày, dép thể thao có đế ngoài và mũ giày bằng cao su và plastic 37.228,35 nghìn đôi (tăng 16,29%); nhóm dịch vụ thu gom rác thải không độc hại có thể tái chế 39,79 tỷ đồng (tăng18,65%); nhóm thùng, hộp bằng bìa cứng 154.670,40 nghìn chiếc (tăng 19,08%);…Có 13/45 nhóm sản phẩm tăng dưới 10% như: nhóm nước uống được đạt 71.487,27 nghìn m³ (tăng 3,30%); nhóm túi xách 16.786,50 nghìn cái (tăng 5,73%); nhóm điện thương phẩm 6.777 triệu KWh (tăng 7,86%); nhóm cáp đồng trục và dây dẫn điện đồng trục khác 3,20 nghìn tấn (tăng 8,18%); nhóm cấu kiện nhà lắp sẵn bằng kim loại 171,04 nghìn tấn (tăng 9,43%).

Sản phẩm có tốc độ giảm so với cùng kỳ là 20/65 nhóm, trong đó có 12/20 nhóm sản phẩm giảm mạnh trên 20% như: nhóm sợi từ bông (staple) nhân tạo 25,58 nghìn tấn (giảm 24,44%); nhóm bia đóng chai 1.841,80 nghìn lít (giảm 33,34%); nhóm giường bằng gỗ các loại 40,78 nghìn chiếc (giảm 40,47%); nhóm dây cách điện đơn dạng cuộn bằng đồng 5,99 nghìn tấn (giảm 51,73%); nhóm áo sơ mi cho người lớn dệt kim hoặc đan móc 26.791,75 nghìn cái (giảm 83,19%);…Có 4/20 nhóm giảm từ 10% - 20% gồm: nhóm vải dệt thoi từ sợi tơ (filament) nhân tạo 156.440,48 nghìn m² (giảm 11,69%); nhóm dầu và mỡ bôi trơn 6,43 nghìn tấn (giảm 14,04%); nhóm dịch vụ lắp đặt cho máy thông dụng khác 44,48 tỷ đồng (giảm 14,35%); nhóm vải dệt thoi từ sợi tơ (filament) tổng hợp 139.567,11 nghìn m²  (giảm 15,44%). Có 4/20 nhóm sản phẩm có tốc độ giảm dưới 10% gồm: nhóm sơn và vộc ni, tan trong môi trường không chứa nước 96,17 nghìn tấn (giảm 0,49%); nhóm phân khoáng hoặc phân hóa học chứa 3 nguyên tố (NPK) 360,73 nghìn tấn (giảm 3,43%); nhóm thức ăn cho thủy sản 886,75 nghìn tấn (giảm 7,35%) và nhóm động cơ khác, bao gồm cả động cơ vạn năng 4.612,66 nghìn chiếc (giảm 8,24%).

4. Hoạt động doanh nghiệp

Lũy kế đến ngày 27/12/2022, có 1.761 doanh nghiệp thành lập mới (tăng 22% so với cùng kỳ), tổng số vốn đăng ký 23.311 tỷ đồng (giảm 29%); có 324 doanh nghiệp giải thể (tăng 56%); tạm ngừng hoạt động kinh doanh 514 doanh nghiệp (tăng 59%); 283 doanh nghiệp thông báo tạm dừng hoạt động và hiện nay đã có thông báo hoạt động trở lại (tăng 12%).

Theo kết quả điều tra xu hướng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo, trong quý IV/2022 có 22,12% doanh nghiệp đánh giá tình hình sản xuất khả quan hơn quý III/2022; 35,58% doanh nghiệp đánh giá là giữ ổn định và 42,31% doanh nghiệp đánh giá là khó khăn hơn. Đánh giá tình hình sản xuất trong quý tiếp theo, theo kết quả điều tra có 25,96% doanh nghiệp đánh giá xu hướng sản xuất kinh doanh quý I/2023 sẽ khả quan hơn quý IV/2022; 36,54% doanh nghiệp đánh giá là giữ ổn định và 37,50% doanh nghiệp đánh giá là khó khăn hơn.

5. Đầu tư phát triển

Tổng vốn đầu tư xã hội thực hiện quý IV năm 2022 ước đạt 13.057,76 tỷ đồng, tăng 6,87% so quý trước và tăng 23,12% so cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn nhà nước trên địa bàn ước đạt 3.607,89 tỷ đồng, tăng 31,70% so quý trước và tăng 32,23% so cùng kỳ; vốn ngoài nhà nước ước đạt 7.353,40 tỷ đồng, tăng 1,14% so quý trước và tăng 26,99% so cùng kỳ; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 2.096,47 tỷ đồng, giảm 5,04% so quý trước và tăng 0,46% so cùng kỳ.

Tổng vốn đầu tư xã hội thực hiện năm 2022 ước đạt 44.424,71 tỷ đồng, tăng 19,21% so cùng kỳ năm trước, bao gồm: Vốn nhà nước trên địa bàn ước đạt 8.907,33 tỷ đồng, tăng 29,88%; vốn ngoài nhà nước ước đạt 26.531,89 tỷ đồng, tăng 10,87%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 8.985,49 tỷ đồng, tăng 38,69%.

6. Thương mại, giá cả

a. Nội thương

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý IV năm 2022 ước đạt 24.815,86 tỷ đồng, tăng 5,99% so quý trước và tăng 13,18% so cùng kỳ. Trong đó: bán lẻ hàng hóa ước đạt 17.005,54 tỷ đồng, tăng 8,75% so quý trước và tăng 10,39% so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành ước đạt 1.924,31 tỷ đồng, tăng 13,48% so quý trước và tăng 46,70% so cùng kỳ; doanh thu dịch vụ khác ước đạt 5.886,01 tỷ đồng, giảm 3,19% so quý trước và tăng 12,97% so cùng kỳ.

Ước cả năm 2022, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 102.740,71 tỷ đồng, tăng 21,43% so cùng kỳ. Trong đó: bán lẻ hàng hóa ước đạt 68.697,90 tỷ đồng (tăng 18,32%); doanh thu dịch vụ lưu trú, ăn uống, lữ hành ước đạt 6.715,07 tỷ đồng (tăng 32,04%); doanh thu dịch vụ khác ước đạt 27.327,74 tỷ đồng (tăng 27,34%).

b. Giá cả

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân quý IV năm 2022 tăng 5,66% so với cùng kỳ năm trước. Có 11/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng so với cùng kỳ, trong đó: tăng cao nhất là nhóm giáo dục tăng 33,34%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 10,86%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 5,05%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,76%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 3,43%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,69%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,90%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,25%; nhóm giao thông tăng 0,73%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,37% và nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,11%.

Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân năm 2022 tăng 4,56% so với cùng kỳ năm trước. Có 11/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng so với cùng kỳ, trong đó: nhóm giáo dục tăng cao nhất 15,18%; nhóm giao thông tăng 13,59%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 8,07%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 4,27%; nhóm  may mặc, mũ nón và giày dép tăng 3,44%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 3,05%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 1,42%; nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tăng 1,34%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 1,29%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,41%; nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,04%.

7. Vận tải, du lịch

a. Vận tải

Tổng doanh thu vận tải, bốc xếp, dịch vụ bến bãi quý IV năm 2022 ước đạt 879,99 tỷ đồng, tăng 13,07% so quý trước và tăng 32,30% so cùng kỳ. Trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước đạt 168,04 tỷ đồng, tăng 6,44% so quý trước và tăng 152,34% so cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 440,25 tỷ đồng, tăng 12,83% so quý trước và tăng 24,40% so cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hành khách ước 7.937,45 nghìn lượt người, giảm 20,69% so quý trước và tăng 113,06% so cùng kỳ; luân chuyển ước đạt 223.943,67 nghìn lượt người.km, giảm 10,79% so quý trước và tăng 143,05% so cùng kỳ. Khối lượng vận tải hàng hóa ước đạt 6.237,81 nghìn tấn, tăng 11,96% so quý trước và tăng 20,50% so cùng kỳ; luân chuyển được 311.144,78 nghìn tấn.km, tăng 11,48% so quý trước và tăng 20,88% so cùng kỳ.

Tổng doanh thu vận tải, bốc xếp, dịch vụ bến bãi năm 2022 ước đạt 3.153,40 tỷ đồng, tăng 19,97% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh thu vận tải hành khách là 586,92 tỷ đồng (tăng 45,25%); vận tải hàng hóa là 1.617,17 tỷ đồng (tăng 13,81%). Khối lượng vận chuyển hành khách đạt 31.351,32 nghìn lượt người, tăng 34,26% so cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển hành khách là 799.028,14 nghìn người.km (tăng 41,03%). Khối lượng vận chuyển hàng hóa là 23.073,08 nghìn tấn (tăng 10,73%); khối lượng luân chuyển hàng hóa là 1.135.005,44 nghìn tấn.km (tăng 11,44%).

b. Du lịch

Trong năm 2022, ngành du lịch tỉnh Long An đã có những kế hoạch và giải pháp nhằm kích cầu du lịch sau đại dịch Covid-19, từ đó có những tín hiệu phục hồi như: Lượng khách du lịch đến Long An khoảng 650.000 lượt người, tăng 88% so với cùng kỳ, tăng 54% so với kế hoạch (có 8.500 lượt khách quốc tế tăng 4 lần so với kế hoạch); doanh thu 325 tỷ đồng, tăng 77% so với cùng kỳ, tăng 44% so với kế hoạch.

8. Tài chính, tiền tệ, bảo hiểm

a. Tài chính

Thu ngân sách nhà nước đến ngày 22/12/2022 đạt 21.437,26 tỷ đồng, đạt 123,52% dự toán và tăng 17,0% so cùng kỳ. Trong đó: thu nội địa đạt 17.200,26 tỷ đồng, bằng 126,52% dự toán và tăng 21,80% so cùng kỳ (thu xổ số kiến thiết 1.795,51 tỷ đồng, bằng 119,70% dự toán và tăng 38,23% so cùng kỳ); thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 4.237 tỷ đồng, bằng 112,69% dự toán và tăng 0,86% so cùng kỳ. Tổng chi ngân sách địa phương đến ngày 22/12/2022 đạt 18.074,61 tỷ đồng, bằng 116,59% dự toán và tăng 30,30% so cùng kỳ. Trong đó, chi đầu tư phát triển là 9.843,85 tỷ đồng, bằng 189,94% dự toán và tăng 70,0% so cùng kỳ; chi thường xuyên là 8.225,16 tỷ đồng, bằng 97,70% dự toán và tăng 1,83% so cùng kỳ.

b. Tiền tệ

Ước tính đến 31/12/2022, vốn huy động đạt 92.612 tỷ đồng, tăng 9,0% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó, vốn huy động bằng VNĐ đạt 91.133 tỷ đồng, tăng 8,83%; vốn huy động bằng ngoại tệ đạt 1.479 tỷ đồng, tăng 21,26%. Tổng dư nợ cho vay đạt 117.739 tỷ đồng, tăng 21,0% so với cùng thời điểm năm trước; trong đó, cho vay ngắn hạn đạt 77.529 tỷ đồng, tăng 22,92%; cho vay trung, dài hạn đạt 40.210 tỷ đồng, tăng 17,45%. Nợ xấu 901 tỷ đồng (tăng 579 tỷ đồng).

c. Bảo hiểm

Ước tính đến ngày 31/12/2022, toàn tỉnh có 359.201 người tham gia BHXH, tăng 7,98% so với cùng kỳ; 1.465.120 người tham gia BHYT, tăng 2,55% và 333.211 người tham gia BHTN, tăng 9,07%.

Tổng số thu bảo hiểm năm 2022 ước đạt 8.266,13 tỷ đồng, tăng 12,63% so với năm 2021, trong đó: thu BHXH đạt 6.000,02 tỷ đồng, tăng 17,08%; thu BHYT đạt 1.963,95 tỷ đồng, tăng 5,68%; thu BHTN đạt 296,19 tỷ đồng, giảm 14,89%.

Tổng số chi bảo hiểm năm 2022 ước đạt 4.398,56 tỷ đồng, giảm 14,59% so với năm 2021, trong đó: chi BHXH đạt 3.223,87 tỷ đồng, giảm 3,46%; chi BHYT đạt 600,57 tỷ đồng, tăng 13,04%; chi BHTN đạt 574,13 tỷ đồng, giảm 55,11%.

9. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội

Trong năm 2022, chính sách người có công và an sinh xã hội được quan tâm thực hiện đầy đủ, kịp thời không phát sinh hộ đói. Công tác kiểm tra đảm bảo giao thông được thực hiện thường xuyên, không xảy ra sự cố mất an toàn giao thông do yếu tố cầu, đường. Cung cấp điện, nước cho nhu cầu sản xuất và sinh hoạt được đảm bảo. Hệ thống thông tin trọng điểm của tỉnh hoạt động ổn định, thông tin liên lạc thông suốt. Trong năm 2022 có 31.747 người đăng ký bảo hiểm thất nghiệp, trong đó xét duyệt 30.426 người; chi trợ cấp thất nghiệp 665,4 tỷ đồng; có 150.274 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm; 457 người được hỗ trợ học nghề.

10. Giáo dục

Trong năm học 2022-2023, toàn tỉnh có 50.077 học sinh cấp học mầm non, mẫu giáo, tăng 8.562 học sinh so với năm học trước; 132.128 học sinh tiểu học (giảm 4.900 học sinh); 100.175 học sinh trung học cơ sở (tăng 2.703 học sinh); 46.636 học sinh trung học phổ thông (giảm 142 học sinh).

Trong kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông năm 2022, toàn tỉnh có 01 Hội đồng thi với 36 điểm thi (giảm 02 điểm thi so với năm trước), có 15.388 thí sinh đăng ký dự thi, kết quả toàn tỉnh đạt tỷ lệ tốt nghiệp THPT năm 2022 là 99,63%, xếp hạng thứ 24/63 tỉnh, thành phố (năm 2021 đạt tỷ lệ 99,50%, xếp hạng thứ 27/63).

11. Y tế

Tình hình dịch bệnh Covid-19 trong năm được kiểm soát, công tác phòng chống dịch tiếp tục được các cấp chính quyền quan tâm thực hiện nhằm mục tiêu thích ứng an toàn, linh hoạt, kiểm soát hiệu quả dịch Covid-19. Tính đến ngày 19/10/2022, toàn tỉnh ghi nhận 49.273 ca nhiễm Covid-19 (trong đó 38.416 ca cộng đồng, 5.893 ca khu cách ly, 4.964 ca trường học).

Một số bệnh truyền nhiễm khác được ghi nhận trong năm như: Bệnh sốt xuất huyết 12.539 ca (tăng 9,2 lần so cùng kỳ), trong đó có 10 ca tử vong (tăng 9 ca so với năm 2021); bệnh tay chân miệng 1.058 ca (giảm 41,8%); bệnh quai bị 19 ca (giảm 4 ca); bệnh thủy đậu 75 (giảm 57,1%); bệnh tiêu chảy 1.432 ca (tăng 0,6%), có 1 ca tử vong (tăng 1 ca so cùng kỳ); bệnh cúm 4.617 ca (giảm 30,5%); bệnh lao phổi 224 ca (giảm 79%). Tổng số ca nhiễm HIV được phát hiện trong năm là 201 ca, tăng 11 ca so với cùng kỳ, có 32 ca tử vong (tăng 6 ca) và số bệnh nhân còn sống đang quản lý là 3.968 ca, trong đó 3.306 ca nội tỉnh và 662 ca ngoại tỉnh. Trong năm, trên địa bàn tỉnh Long An không xảy ra ngộ độc thực phẩm.  

12. Dân số, lao động và việc làm

Dân số trung bình của tỉnh năm 2022 ước đạt 1.734.259 người, tăng 0,49% so cùng kỳ. Trong đó, dân số trung bình nam đạt 865.916 người (tăng 0,40%), dân số trung bình nữ đạt 868.343 người (tăng 0,47%).

Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên của tỉnh năm 2022 ước đạt 996,91 nghìn người, tăng 0,42% so cùng kỳ. Trong đó, lao động là nam đạt 549,24 nghìn người (tăng 0,90%), lao động nữ đạt 447,67 nghìn người (giảm 0,16%).

Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong năm 2022 ước đạt 971,17 nghìn người, giảm 0,08% so cùng kỳ. Trong đó, lao động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản ước đạt 289,40 nghìn người (giảm 0,08%); lao động trong khu vực công nghiệp và xây dựng ước đạt 402,80 nghìn người (giảm 0,33%); lao động trong khu vực dịch vụ ước đạt 278,97 nghìn người (tăng 0,28%).

13. Văn hóa, thể thao

a. Văn hóa

Trong năm 2022, toàn tỉnh đã thực hiện treo 7.092 tấm băng rôn, pa nô, áp phích và 1.303 cuộc tuyên truyền lưu động, tuyên truyền qua hệ thống loa truyền thanh, phát hành tờ tin ảnh thời sự và bài tuyên truyền cổ động trên địa bàn 15 huyện, thị xã, thành phố; tuyên truyền về mừng Đảng mừng Xuân Nhâm Dần, các ngày lễ kỷ niệm của đất nước, của tỉnh và tuyên truyền phòng, chống dịch Covid-19 trong tình hình mới, tuyên truyền thực hiện hóa đơn điện tử, chuyển đổi số, an toàn giao thông, an toàn thực phẩm, phòng chống tội phạm, phòng cháy chữa cháy, phòng chống bệnh sốt xuất huyết, bệnh đậu mùa khỉ, bệnh tay chân miệng…Trong năm, Trung tâm Văn hóa nghệ thuật tỉnh đã tổ chức biểu diễn nghệ thuật với 80 suất cải lương, 60 suất biểu diễn xiếc và 67 cuộc biểu diễn văn nghệ quần chúng.

b. Thể thao

Trong năm 2022, tỉnh đã tổ chức thành công Đại hội thể dục thể thao tỉnh Long An lần thứ IX với 17 môn thi đấu gồm: Quần vợt, Cờ tướng, Bóng bàn, Đá cầu, Cầu lông, Taekwondo, Bóng đá, Vovinam, Điền kinh, Bơi lội, Việt dã, Cờ vua, Đẩy gậy, Thể dục dưỡng sinh, Võ cổ truyền, Bóng chuyền hơi nữ và bóng chuyền nam. Đồng thời còn tổ chức 02 giải cấp tỉnh ngoài chương trình Đại hội TDTT là môn Bơi lội và Điền kinh các nhóm tuổi. Đến cuối năm 2022, số người tập luyện TDTT thường xuyên đạt 34,1%; số hộ gia đình thể thao đạt 26%; 100% số học sinh đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể.

14. Tình hình cháy, nổ và bảo vệ môi trường

a. Cháy, nổ: Trong quý IV năm 2022, trên địa bàn tỉnh xảy ra 1 vụ cháy, nổ (giảm 1 vụ so quý trước và giảm 2 vụ so cùng kỳ), có 1 người chết (tăng 1 người so với quý trước và bằng so với cùng kỳ). Lũy kế đến ngày 14/12/2022 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 5 vụ cháy (giảm 2 vụ so cùng kỳ năm trước); có 1 người chết (bằng so cùng kỳ); tổng giá trị thiệt hại là 12.200 triệu đồng (tăng 3.770 triệu đồng so cùng kỳ).

b. Bảo vệ môi trường: Trong quý IV năm 2022 trên địa bàn tỉnh có 1 vụ vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường (so quý trước và quý cùng kỳ đều tăng 1 vụ); tổng số tiền phạt là 320 triệu đồng (quý trước và quý cùng kỳ không có phát sinh tiền phạt). Trong năm 2022, trên địa bàn tỉnh đã phát hiện và xử phạt 5 vụ vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường (giảm 12 vụ so với cùng kỳ năm trước); tổng số tiền phạt là 728,7 triệu đồng (giảm 2.271,3 triệu đồng so cùng kỳ). 

15. Tai nạn giao thông

Theo báo cáo của Công an tỉnh, trong quý IV năm 2022 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 38 vụ tai nạn giao thông (tăng 14 vụ so quý trước và giảm 10 vụ so cùng kỳ); làm chết 23 người (tăng 11 người so quý trước và giảm 1 người so cùng kỳ); bị thương 21 người (tăng 6 người so quý trước và giảm 11 người so cùng kỳ). Trong năm 2022, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 132 vụ tai nạn giao thông, tăng 4 vụ so cùng kỳ năm trước; làm chết 80 người, tăng 9 người; bị thương 70 người, giảm 8 người so cùng kỳ.

CỤC THỐNG KÊ LONG AN



[1] Theo công văn số 2038/TCTK-TKQG ngày 30/11/2022 của Tổng cục Thống kê: Quý I/2022: tăng 4,84%; quý II tăng 6,19%; 6 tháng đầu năm tăng 5,47%; quý III tăng 19,07%; 9 tháng tăng 9,76%; quý IV tăng 4,67%; cả năm 2022 tăng 8,46%.

[2] Sơ bộ năm 2021 tăng 1,19%; trong đó, khu vực I (nông, lâm, thủy sản) tăng 3,42%; khu vực II (công nghiệp, xây dựng) tăng 0,57%; khu vực III (thương mại, dịch vụ) tăng 0,88%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 1,39%.

[3] Đồng bằng sông Cửu Long: 1. Hậu Giang (13,94%); 2. TP Cần Thơ (12,64%); 3. Vĩnh Long (11,28%); 4. Bạc Liêu (9,60%); 5. Đồng Tháp (8,62%); 6. Long An (8,46%); 7. Sóc Trăng (7,71%); 8. Kiên Giang (7,70%); 9. Bến Tre (7,33%); 10. Tiền Giang (7,02%); 11. An Giang (6,87%); 12. Cà Mau (6,50%); 13. Trà Vinh (3,45%).

[4] Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam: 1. Tây Ninh (9,56%); 2. Đồng Nai (9,22%); 3. Tp. HCM (9,03%); 4. Long An (8,46%); 5. Bình Phước (8,42%); 6. Bình Dương (8,01%); 7. Bà Rịa Vũng Tàu (7,15%); 8. Tiền Giang (7,02%).

[5]Lúa mùa 2021-2022: Diện tích gieo cấy đạt 1.595 ha, giảm 8,12% so với cùng kỳ; năng suất đạt 41,4 tạ/ha (tăng 22,32%); sản lượng đạt 6.606 tấn (tăng 12,39%). Lúa đông xuân 2021-2022: Diện tích gieo cấy đạt 225.926 ha, tăng 0,03% so cùng kỳ; năng suất đạt 64,5 tạ/ha (giảm 3,08%); sản lượng đạt 1.456.627 tấn (giảm 3,05%). Lúa hè thu 2022: Diện tích gieo sạ đạt 216.981 ha, giảm 1,87% so với cùng kỳ; năng suất ước đạt 49,5 tạ/ha (giảm 0,99%); sản lượng thu hoạch ước đạt 1.073.320 tấn (giảm 2,84%). Lúa thu đông 2022: Diện tích gieo sạ 64.556 ha, tăng 3,09% so với cùng kỳ; năng suất ước đạt 50,9 tạ/ha (tăng 1,92%); sản lượng thu hoạch ước đạt 328.319 tấn (tăng 5,07%).

 


image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1