image banner
Thông cáo báo chí quý II và 6 tháng đầu năm 2023

Tình hình kinh tế – xã hội trong 6 tháng đầu năm 2023 diễn ra trong bối cảnh kinh tế thế giới tiếp tục biến động phức tạp, khó lường, nhất là diễn biến xung đột Nga – U-crai-na và phản ứng của các nước; lạm phát tuy đã hạ nhiệt nhưng vẫn ở mức cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro; chính sách tiền tệ tiếp tục thắt chặt; tiêu dùng và các hoạt động kinh tế tiếp tục suy giảm, kinh tế thế giới dự báo tăng trưởng thấp trong năm nay.

Trong nước, dưới sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành và địa phương nỗ lực cố gắng tổ chức thực hiện các nhiệm vụ và giải pháp nhằm đạt mục tiêu tăng trưởng đã đề ra. Các giải pháp đồng bộ đã được triển khai thực hiện đồng hành với sự ủng hộ của Nhân dân cả nước và niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp. Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ đã phát huy hiệu quả, tạo động lực khôi phục, phát triển kinh tế nhanh, bền vững cho từng lĩnh vực và từng địa phương.

Tại Long An, dưới sự điều hành, chỉ đạo đúng đắn, kịp thời của Tỉnh ủy, sự quan tâm sâu sắc, giám sát thường xuyên của Hội đồng nhân dân tỉnh, chỉ đạo kịp thời, hiệu quả của Ủy ban nhân dân tỉnh và sự nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ của các sở, ngành, địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân trong tỉnh; với phương châm "Đoàn kết kỷ cương, bản lĩnh linh hoạt, đổi mới sáng tạo, kịp thời hiệu quả", triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp đề ra trên các lĩnh vực ngay từ đầu năm với tinh thần vượt lên khó khăn, thách thức, kịp thời khắc phục những hạn chế bất cập,… nên tình hình kinh tế - xã hội quý II/2023 và 6 tháng đầu năm 2023 tiếp tục có xu hướng phục hồi và đạt được nhiều kết quả khả quan trên các lĩnh vực, cụ thể như sau:

I. Tăng trưởng kinh tế

1. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong tỉnh

Tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) ước tính quý II năm 2023 tăng 2,97% so với cùng kỳ năm trước[1], tính chung 6 tháng đầu năm 2023 tăng 3,43%. Đạt được mức tăng trưởng trên cho thấy chính sách phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội của Chính phủ, sự điều hành, chỉ đạo sát sao của UBND tỉnh, các cấp, các ngành, sự nổ lực vượt qua khó khăn của cộng đồng doanh nghiệp và người dân trên địa bàn tỉnh đã phát huy hiệu quả trong điều kiện kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức khi thế giới thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát, gián đoạn nguồn cung do tác động từ cuộc xung đột tại U-crai-na và sự suy yếu của các nền kinh tế lớn dẫn đến tổng cầu thế giới suy giảm, các doanh nghiệp phải giảm giờ làm do thiếu đơn hàng, tiêu dùng nội tỉnh có phần chậm lại khi người lao động có xu hướng tiết kiệm hơn trong chi tiêu. Dù chưa đạt được kỳ vọng nhưng đây là mức tăng trưởng tích cực, đứng thứ 9/13 tỉnh/thành vùng Đồng bằng Sông Cửu Long[2] và đứng thứ 6/8 tỉnh/thành vùng Kinh tế trọng điểm phía nam[3].

Trong mức tăng trưởng 6 tháng đầu năm của tỉnh, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,71%, đóng góp 0,64 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 3,40%, đóng góp 1,70 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 4,06%, đóng góp 1,10 điểm phần trăm; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm tăng 0,10%, đóng góp 0,01 điểm phần trăm.

Về cơ cấu nền kinh tế 6 tháng đầu năm 2023, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 16,41% GRDP; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 50,92%; khu vực dịch vụ chiếm 27,13%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 5,54% (cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2022 là: 15,60%; 52,31%; 26,44%; 5,65%).

2. Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản

a. Nông nghiệp

Tổng diện tích xuống giống (vụ mùa và vụ đông xuân) là 226.491,80 ha, giảm 0,45% so với cùng kỳ. Đã thu hoạch xong, diện tích thu hoạch đạt 226.491,80 ha, giảm 0,45% so với cùng kỳ; năng suất thu hoạch đạt 67,64 tạ/ha (tăng 5,17%); sản lượng thu hoạch đạt 1.531.951 tấn (tăng 4,70%).

Một số cây hàng năm khác: Rau các loại trồng được 6.830,20 ha, tăng 16,02% so cùng kỳ; sản lượng đạt 129.090,60 tấn (giảm 1,47%). Cây bắp trồng được 245,70 ha (tăng 8,24%); sản lượng 790,61 tấn (giảm 36,3%). Cây đậu phộng trồng được 123,60 ha (giảm 13,81%); sản lượng đạt 370,80 tấn (giảm 15,50%). Cây mía trồng được 21,90 ha (tăng 43,14%); sản lượng đạt 1.101,57 tấn (tăng 16,56%). Cây sắn trồng được 401,91 ha (tăng 14,29%); sản lượng đạt 4.421,01 tấn (tăng 26,25%). Cây khoai mỡ trồng được 39,10 ha (tăng 185,40%); sản lượng đạt 516,12 tấn (tăng 189,47%). Cây khoai lang trồng được 7,90 ha (giảm 68,40%); sản lượng đạt 50,56 tấn (giảm 72,82%).

Một số cây lâu năm chủ yếu: Cây chanh diện tích ước có 11.728,40 ha (tăng 1,74% so cùng thời điểm năm trước); sản lượng ước đạt 91.396,60 tấn (tăng 5,16% so cùng kỳ). Cây thanh long ước có 8.971,60 ha (tăng 7,69% so cùng thời điểm năm trước); sản lượng ước đạt 133.607,51 tấn (tăng 2,70% so cùng kỳ). Cây xoài diện tích ước có 490,6 ha (tăng 2,2% so cùng thời điểm năm trước); sản lượng ước đạt 2.579,2 tấn (tăng 5,5% so cùng kỳ). Cây dứa (thơm) diện tích ước có 991,2 ha (tăng 17,8%); sản lượng ước đạt 9.239,4 tấn (tăng 3,5%). Cây dừa diện tích ước có 2.029,5 ha (tăng 3,3%); sản lượng ước đạt 16.274,2 tấn (tăng 10,3%). Cây mai diện tích ước có 2.434,9 ha (tăng 2,1%); sản lượng ước đạt 491.381 cây (tăng 22,7%). Cây chuối diện tích ước có 785,2 ha (tăng 2,6%); sản lượng ước đạt 6.045 tấn (tăng 16,9%). Cây mít diện tích ước có 2.780,9 ha (tăng 4,5%); sản lượng ước đạt 15.278,36 tấn (tăng 17,2%). Cây ổi diện tích ước có 404,3 ha (giảm 6,9%); sản lượng ước đạt 3.474,4 tấn (giảm 3,21% so cùng kỳ).

Đến cuối tháng 6/2023, đàn trâu có 5.884 con (giảm 2,42% so cùng thời điểm năm trước); đàn bò có 117.064 con (tăng 0,39%), trong đó: bò sữa là 17.972 con (giảm 11,11%); đàn dê có 10.648 con (tăng 29,76%); đàn heo có 104.460 con (giảm 4,41%); đàn gia cầm có 9.598 nghìn con (tăng 30,75%), trong đó: gà là 8.120 nghìn con (tăng 37,20%).

Ước 6 tháng đầu năm 2023, sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng là 206,99 tấn (giảm 17,02% so cùng kỳ); bò là 3.500 tấn (tăng 32,33%); dê là 70,52 tấn (tăng 71,17%); lợn là 11.851,41 tấn (giảm 1,75%); gia cầm là 22.382,59 tấn (tăng 5,23%), trong đó: Gà là 17.920,12 tấn (tăng 1,85%). Sản lượng trứng gia cầm 246,67 triệu quả (tăng 6,25%), trong đó: Trứng gà là 209,27 triệu quả (tăng 8,86%); sản lượng sữa bò tươi là 17.135,29 tấn (giảm 7,16%).

b. Lâm nghiệp

Trong 6 tháng đầu năm 2023, diện tích trồng rừng trên địa bàn tỉnh khoảng 355 ha (rừng trồng mới và trồng lại sau khai thác), giảm 25,26% so cùng kỳ. Diện tích rừng hiện có của tỉnh là 21.667,80 ha, gồm: rừng sản xuất là 17.779,03 ha, rừng đặc dụng là 1.813,14 ha và rừng phòng hộ là 2.075,63 ha. Tổng lượng gỗ khai thác ước đạt 74,55 nghìn m3 (tăng 6,58% so cùng kỳ), củi ước đạt 85,85 nghìn ster (tăng 3,83%).

c. Thủy sản

Tổng sản lượng thủy sản 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 47.496,70 tấn, tăng 7,11% so cùng kỳ. Bao gồm: sản lượng thủy sản khai thác ước đạt 3.362,19 tấn, giảm 4,80% so cùng kỳ. Trong đó, sản lượng khai thác cá ước đạt 1.527,25 tấn (giảm 1,08%), tôm ước đạt 449,58 tấn (giảm 6,27%) và sản lượng khai thác thủy sản khác ước đạt 1.385,35 tấn (giảm 8,13%). Sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 44.134,51 tấn, tăng 8,14% so cùng kỳ. Trong đó, sản lượng cá ước đạt 33.130,16 tấn (tăng 8,93%), trong đó cá tra công nghiệp ước đạt 26.216,33 tấn (tăng 3%); sản lượng tôm ước đạt 8.832,11 tấn (tăng 8,02%), trong đó tôm sú ước đạt 640 tấn (tăng 0,47%) và tôm thẻ chân trắng ước đạt 7.925,11 tấn (tăng 12,13%); sản lượng thủy sản khác ước đạt 2.172,24 tấn (giảm 2,20%).

3. Sản xuất công nghiệp

Chỉ số sản xuất công nghiệp quý II năm 2023 tăng 6,85% so quý trước và tăng 1,03% so cùng kỳ. Trong đó: công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 6,74% so quý trước và tăng 0,86% so cùng kỳ; công nghiệp điện tăng 8,99% so quý trước và tăng 1,74% so cùng kỳ; công nghiệp cung cấp nước, xử lý chất thải tăng 6,04% so quý trước và tăng 11,60% so cùng kỳ.

Chỉ số sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2023 tăng 3,38% so với cùng kỳ, trong đó: công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,36%; công nghiệp điện tăng 2,07%; công nghiệp cung cấp nước, xử lý chất thải tăng 10,63%.

Trong các ngành công nghiệp cấp II, một số ngành có chỉ số sản xuất 6 tháng đầu năm 2023 tăng cao so với cùng kỳ năm trước, đóng góp chủ yếu vào tăng trưởng chung của toàn ngành công nghiệp như: ngành sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 76,04%; sản xuất hoá chất và sản phẩm hoá chất tăng 35,39%; sản xuất kim loại tăng 24,47%; sản xuất giường, tủ, bàn, ghế tăng 10,68%; thoát nước và xử lý nước thải tăng 85,95%.

Lũy kế đến cuối tháng 6 năm 2023 có 31/58 nhóm sản phẩm có tốc độ tăng so cùng kỳ, trong đó: 9/31 nhóm sản phẩm tăng trên 20%, 6/31 nhóm sản phẩm tăng từ 10% - 20%, 16/31 nhóm sản phẩm tăng dưới 10%. Có 27/58 nhóm sản phẩm có tốc độ giảm so với cùng kỳ, trong đó: 7/27 nhóm sản phẩm giảm trên 20%, có 7/27 nhóm sản phẩm giảm từ 10% - 20% và 13/27 nhóm sản phẩm có tốc độ giảm dưới 10%.

4. Hoạt động doanh nghiệp

Đầu tư trong nước: Trong 6 tháng đầu năm 2023, thành lập mới 801 doanh nghiệp, với tổng số vốn đăng ký 9.391 tỷ đồng; so với cùng kỳ giảm 5,8% về số lượng doanh nghiệp mới thành lập và giảm 23% về vốn đăng ký; giải thể 117 doanh nghiệp (tăng 17%); tạm ngừng hoạt động kinh doanh 426 doanh nghiệp (tăng 33,9%); có 184 doanh nghiệp thông báo tạm dừng hoạt động và hiện nay đã có thông báo hoạt động trở lại (tăng 9,5%).

Đầu tư nước ngoài: Trong 6 tháng đầu năm, thu hút 39 dự án đầu tư mới (tăng 15 dự án so với cùng kỳ) với tổng vốn đăng ký là 408,55 triệu USD (tăng 162,05 triệu USD); điều chỉnh tăng vốn cho 35 dự án (tăng 1 dự án so với cùng kỳ) với vốn đầu tư tăng 64,29 triệu USD (giảm 96,55 triệu USD). Tổng vốn cấp mới và điều chỉnh tăng 472,84 triệu USD (tăng 65,45 triệu USD).

Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh tại 98 doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong quý II năm 2023 cho thấy: Có 22 doanh nghiệp (chiếm 22,45%), đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh tốt hơn so với quý trước; 45 doanh nghiệp (chiếm 45,92%), cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh ổn định và 31 doanh nghiệp (chiếm 31,63%), đánh giá gặp khó khăn. Dự kiến quý III năm 2023, điều tra 98 doanh nghiệp thì 27 doanh nghiệp (chiếm 27,55%), đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý II năm 2023; 42 doanh nghiệp (chiếm 42,86%), cho rằng tình hình sản xuất kinh doanh sẽ ổn định và 29 doanh nghiệp (chiếm 29,59%), dự báo khó khăn hơn.

5. Đầu tư phát triển

Tổng vốn đầu tư xã hội thực hiện quý II năm 2023 ước đạt 11.962,44 tỷ đồng, tăng 35,33% so quý trước và tăng 5,42% so cùng kỳ năm trước, bao gồm: vốn nhà nước trên địa bàn ước đạt 2.426,85 tỷ đồng, tăng 104,88% so quý trước và tăng 18,85% so cùng kỳ; vốn ngoài nhà nước ước đạt 6.992,21 tỷ đồng, tăng 32,01% so quý trước và tăng 1,76% so cùng kỳ; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 2.543,38 tỷ đồng, tăng 7,87% so quý trước và tăng 4,49% so cùng kỳ.

Tổng vốn đầu tư xã hội thực hiện 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 20.801,65 tỷ đồng, tăng 5,90% so cùng kỳ năm trước và chiếm khoảng 25,44% GRDP, bao gồm: vốn nhà nước trên địa bàn ước đạt 3.611,37 tỷ đồng (tăng 17,10%); vốn ngoài nhà nước ước đạt 12.289,06 tỷ đồng (tăng 3,20%); vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ước đạt 4.901,22 tỷ đồng (tăng 5,38%).

6. Thương mại, giá cả

a. Nội thương

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng quý II năm 2023 ước đạt 21.844,66 tỷ đồng, giảm 3,64% so quý trước và tăng 13,43% so cùng kỳ. Trong đó: bán lẻ hàng hóa ước đạt 14.154,01 tỷ đồng, giảm 7,09% so quý trước và tăng 9,28% so cùng kỳ; dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước đạt 1.574,73 tỷ đồng, tăng 1,74% so quý trước và tăng 58,80% so cùng kỳ; dịch vụ khác ước đạt 6.115,92 tỷ đồng, tăng 3,86% so quý trước và tăng 15,10% so cùng kỳ.

Trong 6 tháng đầu năm 2023, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng ước đạt 44.515,10 tỷ đồng, tăng 11,43% so cùng kỳ. Trong đó: bán lẻ hàng hóa ước đạt 29.388,33 tỷ đồng (tăng 9,16%); dịch vụ lưu trú, ăn uống, du lịch lữ hành ước đạt 3.122,44 tỷ đồng (tăng 35,24%); dịch vụ khác ước đạt 12.004,33 tỷ đồng (tăng 11,99%).

b. Giá cả

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân quý II năm 2023 tăng 3,80% so với cùng kỳ năm trước. Có 10/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ trong rổ hàng hóa có CPI tăng so với cùng kỳ, trong đó: nhóm giáo dục tăng mạnh nhất 26,54%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 8,67%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 4,81%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 3,41%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,34%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,26%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,16%; nhóm văn hoá, giải trí và du lịch tăng 1,22%; nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,47%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,18%. Riêng nhóm giao thông có chỉ số giá giảm 10,48% so với cùng kỳ.

Chỉ số giá tiêu dùng bình quân 6 tháng đầu năm 2023 tăng 4,71% so với cùng kỳ năm trước. Có 10/11 nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá tăng so với cùng kỳ, trong đó: nhóm giáo dục tăng mạnh nhất 28,25%; nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 10,20%; nhóm may mặc, mũ nón và giày dép tăng 4,82%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 3,85%; nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 2,71%; nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 2,57%; nhóm đồ uống và thuốc lá tăng 2,33%; nhóm văn hoá, giải trí và du lịch tăng 1,51%; nhóm bưu chính viễn thông tăng 0,41%; nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,25%. Riêng nhóm giao thông có chỉ số giá giảm 6,68% so với cùng kỳ.

7. Vận tải, du lịch

a. Vận tải

Tổng doanh thu vận tải, bốc xếp, dịch vụ bến bãi quý II năm 2023 ước đạt 1.278,85 tỷ đồng, tăng 10,44% so quý trước và tăng 26,80% so cùng kỳ. Trong đó: doanh thu vận tải hành khách ước đạt 181,87 tỷ đồng, tăng 39,62% so quý trước và tăng 35,88% so cùng kỳ; doanh thu vận tải hàng hóa ước đạt 542,43 tỷ đồng, tăng 2,81% so quý trước và tăng 26,71% so cùng kỳ. Khối lượng vận chuyển hành khách ước 5.599,20 nghìn lượt người, tăng 16,72% so quý trước và tăng 31,21% so cùng kỳ; luân chuyển ước đạt 149.652,74 nghìn lượt người.km, tăng 24,85% so quý trước và tăng 34,13% so cùng kỳ. Khối lượng vận tải hàng hóa ước đạt 5.682,53 nghìn tấn, giảm 11,25% so quý trước và tăng 22,53% so cùng kỳ; luân chuyển được 253.889,07 nghìn tấn.km, giảm 16,08% so quý trước và tăng 22,73% so cùng kỳ.

Tổng doanh thu vận tải, bốc xếp, dịch vụ bến bãi 6 tháng đầu năm 2023 ước đạt 2.436,80 tỷ đồng, tăng 18,29% so cùng kỳ năm trước. Trong đó: doanh thu vận tải hành khách là 312,13 tỷ đồng, tăng 22,04%; vận tải hàng hóa là 1.070,05 tỷ đồng, tăng 17,98%. Khối lượng vận chuyển hành khách là 10.396,50 nghìn lượt người, tăng 18,50% so cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển hành khách là 269.515,41 nghìn người.km, tăng 18,43%. Khối lượng vận chuyển hàng hóa là 12.085,41 nghìn tấn, tăng 13,03% so cùng kỳ năm trước; khối lượng luân chuyển hàng hóa là 556.422,31 nghìn tấn.km, tăng 13,27%.

b. Du lịch

Trong 6 tháng đầu năm 2023, lượt khách du lịch đến Long An ước khoảng 362.300 lượt người, tăng 54% so với cùng kỳ (có khoảng 7.700 lượt khách quốc tế), doanh thu ước đạt 174 tỷ đồng, tăng 39% so với cùng kỳ. Trong đó, điểm thu hút khách du lịch nhiều nhất là khu du lịch Happyland ước khoảng 18.000 lượt người, vườn thú Mỹ Quỳnh ước khoảng 9.000 lượt người.

8. Tài chính, tiền tệ

a. Tài chính

Thu ngân sách nhà nước đến ngày 28/6/2023 đạt 9.637,25 tỷ đồng, bằng 47,81% dự toán giao và giảm 20,96% so cùng kỳ. Trong đó: thu nội địa đạt 8.093,29 tỷ đồng, bằng 51,59% dự toán giao và giảm 18,47% so cùng kỳ (thu xổ số kiến thiết 1.017,58 tỷ đồng, bằng 63,20% dự toán giao và tăng 23,14% so cùng kỳ); thu từ hoạt động xuất nhập khẩu đạt 1.543,96 tỷ đồng, bằng 34,54% dự toán giao và giảm 31,88% so cùng kỳ. Tổng chi ngân sách địa phương đạt 9.993,64 tỷ đồng, bằng 52,81% dự toán giao và tăng 34,32% so cùng kỳ. Trong đó, chi đầu tư phát triển là 6.205,23 tỷ đồng, bằng 103,56% dự toán giao và tăng 70,74% so cùng kỳ; chi thường xuyên là 3.786,71 tỷ đồng, bằng 41,75% dự toán giao và giảm 0,46% so cùng kỳ.

b. Tiền tệ

Tổng nguồn vốn huy động đến cuối tháng 6/2023 ước đạt 96.790 tỷ đồng, tăng 4,50% so với đầu năm và tăng 2,65% so cùng thời điểm năm trước; tổng dư nợ tín dụng ước đạt 124.062 tỷ đồng, tăng 5,07% so với đầu năm và tăng 10,59% so cùng thời điểm năm trước; nợ xấu 2.140 tỷ đồng, tăng 101,33% so với đầu năm và tăng 376,61% so với cùng thời điểm năm trước.

II. Một số vấn đề xã hội

1. Đời sống dân cư và công tác an sinh xã hội

Trong 6 tháng đầu năm 2023, chính sách người có công và an sinh xã hội được tỉnh quan tâm thực hiện đầy đủ, kịp thời, không phát sinh hộ đói. Công tác chăm lo, nuôi dưỡng các đối tượng khó khăn, cơ nhỡ được quan tâm. Hoạt động cung cấp điện, nước, thông tin liên lạc cho nhu cầu sinh hoạt người dân trên địa bàn tỉnh được đảm bảo.

2. Giáo dục

Trong 6 tháng đầu năm 2023, ngành Giáo dục đã tổ chức nhiều hoạt động như: Hội thi giáo viên mầm non dạy giỏi cấp tỉnh (kết quả có 102 giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi cơ sở GDMN), hội thi giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi cấp tiểu học cấp tỉnh (có 120 giáo viên đạt danh hiệu) và hội thi thiết kế giáo án tương tác cấp tỉnh cấp trung học (82 giáo viên đạt giải). Tổ chức kỳ thi tốt nghiệp THPT quốc gia vào cuối tháng 6 năm 2023, toàn tỉnh có 1 hội đồng thi do Sở GD&ĐT chủ trì tổ chức. Tổng số thí sinh đăng ký dự thi là 15.652 thí sinh (nhiều hơn năm 2022 là 264 thí sinh). Có 36 điểm thi đặt tại các trường THPT hoặc THCS trên địa bàn của 15 huyện, thị xã, thành phố. 

3. Y tế

Tình hình dịch bệnh trên địa bàn tỉnh 6 tháng đầu năm 2023 cơ bản ổn định, các bệnh truyền nhiễm được kiểm soát tốt, công tác chăm lo sức khỏe của người dân được quan tâm. Một số bệnh truyền nhiễm được ghi nhận đến cuối tháng 5 năm 2023 như: Bệnh sốt xuất huyết 1.565 ca (giảm 21,20% so với cùng kỳ), tử vong 1 ca (giảm 66,67%); bệnh tay chân miệng 207 ca (giảm 39,47%), tử vong 1 ca (tăng 1 ca so cùng kỳ); bệnh thủy đậu 84 ca (tăng 425%); bệnh lao phổi 225 ca (tăng 73,08%); bệnh quai bị 6 ca (giảm 85,71%); bệnh tiêu chảy 657 ca (tăng 12,89%); bệnh viêm gan B có 1.365 ca (tăng 3,09%); bệnh sởi lâm sàn 1 ca (giảm 50%); bệnh do vi rút adeno 243 ca (tăng 82,71%). Tổng số ca nhiễm HIV được phát hiện từ đầu năm đến cuối tháng 5 năm 2023 là 185 ca, tăng 39 ca so với cùng kỳ. Số bệnh nhân còn sống đang được quản lý là 3.343 nội tỉnh và 764 ca ngoại tỉnh. Trong 5 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh không xảy ra ngộ độc thực phẩm.

4. Lao động và việc làm

Đào tạo nghề, giải quyết việc làm luôn được tỉnh quan tâm, chú trọng. Trong 6 tháng đầu năm 2023, có 189 lao động sang nước ngoài làm việc chủ yếu tại Nhật Bản và Đài Loan; cấp 382 giấy phép cho người lao động nước ngoài; thẩm định nội quy 51 doanh nghiệp; xác nhận khai báo kiểm định 41 doanh nghiệp với tổng số 260 thiết bị. Có 17.836 người đăng ký bảo hiểm thất nghiệp; trong đó xét duyệt 14.182 người; chi trợ cấp thất nghiệp 352,2 tỷ đồng; 335 người được hỗ trợ học nghề, 89.876 lượt người được tư vấn, giới thiệu việc làm. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp của tỉnh tuyển sinh đào tạo được 9.105 lao động, tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 73,94%, trong đó có bằng cấp, chứng chỉ đạt 32,43% (51 cao đẳng, 350 trung cấp, 4.477 sơ cấp, 4.227 thường xuyên).

5. Văn hóa - thể thao

a. Văn hóa: Trong 6 tháng đầu năm 2023, các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, vui chơi, giải trí đã được tỉnh tổ chức nhằm chào mừng các ngày lễ lớn của đất nước và giúp nâng cao tinh thần, cuộc sống cho người dân.

b. Thể thao: Trong 6 tháng đầu năm 2023, toàn tỉnh tổ chức được 103 giải thi đấu thể thao phong trào và 81 lớp đào tạo năng khiếu thể thao. Tính đến hiện tại, số người tập luyện thể dục thể thao thường xuyên là 574.661 người; số hộ gia đình thể thao là 124.734 hộ; 100% số học sinh đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể.

6. Tình hình cháy nổ và bảo vệ môi trường

a. Cháy, nổ: Tính chung 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 4 vụ cháy (tăng 2 vụ so cùng kỳ năm trước); có 1 người chết (tăng 1 người) và không có người bị thương; tổng giá trị thiệt hại là 5.010 triệu đồng (tăng 2.010 triệu đồng).

b. Bảo vệ môi trường: Trong 6 tháng đầu năm 2023, trên địa bàn tỉnh đã phát hiện và xử phạt 5 vụ vi phạm quy định về bảo đảm vệ sinh môi trường (tăng 1 vụ so với cùng kỳ năm trước); tổng số tiền phạt là 511,72 triệu đồng (tăng 103,02 triệu đồng).

7. Tai nạn giao thông

Theo báo cáo của Ban An toàn Giao thông, 6 tháng đầu năm 2023 trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 55 vụ tai nạn giao thông (giảm 15 vụ so cùng kỳ năm trước); làm chết 33 người (giảm 12 người); bị thương 22 người (giảm 12 người)./.

CỤC THỐNG KÊ LONG AN

[1] Theo công văn 839/TCTK-TKQG ngày 29/5/2023 của Tổng cục Thống kê: Quý I tăng 3,84%, quý II tăng 2,97%, 6 tháng tăng 3,43%.

[2] Tốc độ tăng GRDP các tỉnh/thành vùng Đồng bằng Sông Cửu Long: 1. Hậu Giang tăng 14,21%; 2. Cà Mau (tăng 8,61%); 3. Bạc Liêu (tăng 6,93%); 4. An Giang (tăng 6,50%); 5. Kiên Giang (tăng 6,37%); 6. Đồng Tháp (tăng 5,89%); 7. Trà Vinh (tăng 5,74%); 8. TP Cần Thơ (tăng 3,71%); 9. Long An (tăng 3,43%); 10. Bến Tre (tăng 3,40%); 11. Tiền Giang (tăng 3,03%); 12. Sóc Trăng (tăng 1,83%); 13. Vĩnh Long (tăng 0,44%).

[3] Tốc độ tăng/giảm GRDP các tỉnh/thành Vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam: 1. Bình Phước tăng 7,27%; 2. Tây Ninh (tăng 4,07%); 3. Đồng Nai (tăng 4,01%); 4. Bình Dương (tăng 3,76%); 5. Tp. HCM (tăng 3,55%); 6. Long An (tăng 3,43%); 7. Tiền Giang (tăng 3,03%); 8. Bà Rịa Vũng Tàu (giảm 3,47%).




image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1